Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

ListBaiViet

AN CƯ MÙA MƯA ĐẦU TIÊN Ở ISIPATANA - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:47:32

Biết rằng dân chúng Benares không ưa thích ngài, dầu cho họ có chú ý đến ngài đi nữa, cũng không mong tìm được nhiều người công nhận Giáo Pháp ngài ở Benares ngoại trừ những thân bằng quyến thuộc của tôn giả Yasa, đức Phật cùng hội chúng Tỳ-kheo ít ỏi của ngài an cư mùa mưa năm 528 trước CN tại Vườn Nai ở Isipatana (Chư Tiên Đọa Xứ) (nay là Sàrnàth). Lúc ấy chưa có một tinh xá thích hợp. Nơi cư ngụ duy nhất gồm vài thảo am hoặc khả quan hơn cả là các lều tre mái sậy mà các Tỳ-kheo dựng lên để bậc Đạo Sư và chư vị ở tạm.

15

CHÍNH THỐNG GIÁO Ở BENARES ĐỐI LẬP PHONG TRÀO SA-MÔN KHẤT SĨ - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:46:41

Ngay thời đức Phật tại thế, Benares đã lừng danh là nơi đặc biệt nhiều ân sủng cho những ai đi tìm cứu rỗi dù không bằng với mức độ như sau này ở thời Ấn giáo. Nhiều người tin rằng lễ tắm ở sông Hằng tại Benares đặc biệt mang tính cứu độ linh thiêng, và các người chết được hỏa thiêu trên các bến sông (ghats) trong thành phố sẽ đi thẳng lên thiên giới tạo cho nơi này một bầu không khí thần thánh.

14

PHÁT TRIỂN GIÁO HỘI - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:45:44

Từ Lộc Uyển ở Isipatana (Sàrnàth ngày nay), đức Phật ít thích đến viếng thành phố Benares. Ngoài khoảng cách chừng một giờ rưỡi đi bộ, còn phải băng qua sông Varunà, (nay là Barnà) và phải di chuyển bằng phà có trả tiền là thứ mà một khất sĩ không cất giữ! Nhất là dân Benares thường chống đối đám du sĩ hành khất nên khó kiếm được thực phẩm bố thí ở đó. Tuy nhiên, mối liên lạc với Benares đã được thiết lập sẵn dành cho đức Phật mà không cần ngài phải làm gì cả. Việc đó là do thanh niên Yasa (Da-xá), nam tử của một thương nhân hào phú, chủ tịch một nghiệp đoàn ở Benares, có lẽ là chủ ngân khố hoặc thương nhân tơ lụa bán sỉ. Yasa là một thanh niên được nuông chìu mọi mặt quá thỏa mãn với cuộc sống truy hoan đã làm cho nội tâm chàng trống rỗng. Kinh Điển Pàli (Mv1.7) nhắc đến ba ngôi nhà chàng ở theo từng mùa, đám nữ vũ công bao vây chàng, song chàng vẫn hờ hững dửng dưng, cùng đôi hài bằng vàng - có lẽ được thêu chỉ bằng vàng - mà chàng mang thuở đó.

15

SÀRNÀTH, ĐỊA ĐIỂM KHẢO CỔ - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:44:36

Sarnàth giống như một ốc đảo thanh bình nằm kế cận tiếng còi xe điện ồn ào và tiếng chuông xe kéo leng keng ở Benares. Thành phố tấp nập này của Ấn giáo chỉ cách 8km với cảnh yên tĩnh của Lộc Uyển (Migadàya) ở Isipatana, nay tên là Sàrnàth (Sanskrit: Sàranganàtha: Lộc Vương), song ở đây, phong cảnh trông thật khác hẳn - trật tự và trang nghiêm. Đoạn cuối con đường nhựa được viền với những hàng cây xoài rậm rạp và cây me hùng vĩ. Khuôn viên có tường đá bao quanh được Ban Khảo Cổ Ấn Độ chăm sóc cẩn thận. Giữa các quần thể di tích là các sân cỏ điểm lấm tấm những chùm hoa giấy tím đỏ khắp nơi.

15

NHỮNG BÀI THUYẾT PHÁP ĐẦU TIÊN - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:43:23

Theo truyền thống, đấng Giác Ngộ trẻ tuổi sống bảy ngày đầu tiên sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề để hưởng "giải thoát lạc" (Mv1.1.1). Ta có thể nhận điều này đúng sự thực, vì nền tảng giáo lý đang cần bổ sung nhiều đặc điểm chi tiết, đồng thời một tâm trạng vừa hân hoan, vừa lưu luyến thân tình có lẽ đã giữ bậc Giác Ngộ ở nán lại địa điểm đầy ý nghĩa như vậy đối với ngài. Ta ít tin hơn vào câu nói rằng sau bảy ngày dưới cội bồ đề, ngài lại sống thêm bảy ngày nữa dưới một số gốc cây khác ở Uruvelà. Dưới gốc Đa Mục Tử (Ficus Indica) ngài giải thích cho một Bà-la-môn hỏi ngài về bản chất thực sự của đạo Bà-la-môn, giáo lý bao gồm trong một đời sống đạo đức thanh tịnh và tinh thông kinh Vệ-đà (Mv1.2).

14

LINH THỌ BỒ-ĐỀ - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:39:54

Trong những bài đức Phật tường thuật về sự Giác Ngộ của ngài (MN 26 và 36), không thấy đoạn nào nói đến sự kiện Giác Ngộ diễn tiến dưới một gốc cây cả. Do vậy nhiều học giả xem gốc cây đánh dấu nơi ngài giác ngộ chỉ là chuyện huyền thoại phi lịch sử, và nêu ý kiến rằng phong tục thờ cây trước thời đức Phật đã tìm cách len lõi vào đạo Phật ở điểm này. Song xét kỹ, một khất sĩ không nhà cửa thì dù đi đâu, cũng vẫn thường ngồi dưới gốc cây che chở sương giá ban đêm và nắng gắt ban ngày, há chẳng là chuyện tự nhiên hay sao? Ta có thể xem chuyện Sa-môn Siddhattha ngồi nhập định đưa đến Giác Ngộ dưới một gốc cây là lẽ dĩ nhiên. Trên thực tế đó là cây assatha, rất dễ nhận ra nhờ chiếc lá hình quả tim với đầu ngọn cong, mà thỉnh thoảng đức Phật có thể thường nhắc đến với chúng đệ tử, nên ta cũng sẵn sàng chấp nhận đó là một sự kiện lịch sử.

15

THÁI TỬ SIDDHATTHA GOTAMA THÀNH PHẬT - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:38:42

Song cả năm vị khổ hạnh kia đều mất hết ảo vọng, vô cùng dao động và phẫn nộ vì thái tử Siddhattha, người anh hùng gương mẫu của nhóm, đã không còn theo đuổi cuộc tầm cầu, đã phá bỏ việc hành trì khổ hạnh và chấp nhận cách nuôi sống đúng đắn thích hợp, đó là chén cơm đầy sữa! Có lẽ vương tử này muốn sống lại đời sung túc chăng? Bất mãn, các vị xa lánh ngài, bỏ mặc ngài ở lại một mình. Thái tử Siddhattha không còn là người hướng đạo, và cũng không phải là bạn đồng tu hành với chư vị nữa. Thế việc gì đã xảy ra vậy? Chúng ta nghe được lời giải thích từ chính miệng ngài:

16

NHÀ KHỔ HẠNH SIDDHATTHA - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:37:42

Khi rời am thất và hội chúng đạo sư Uddaka Ràmaputta có lẽ ở gần thành Ràjagaha, thái tử Siddhattha du hành về hướng tây nam cho đến gần Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa), một thị trấn có thành lũy của quân đội thuộc Đại Vương Magadha, ngài thấy “một vùng đất tươi đẹp với khu rừng khả ái và dòng sông trong vắt rất thích hợp để tắm mát và nghỉ ngơi, lại có làng xóm chung quanh để khất thực”. (MN 26). Tại địa điểm này trên bờ sông Neranjarà (ngày nay là Nìlajanà) hợp với sông Mohanà để tạo thành sông Phalgu, ngài định trú chân và hành trì khổ hạnh. Trước kia, các giáo lý Upanisad và Yoga đã chứng tỏ không thích hợp để ngài đạt tri kiến giải thoát, nên có lẽ khổ hạnh là phương pháp đúng đắn. Về sau, ngài diễn tả cho hội chúng Tỳ-kheo nghe đầy đủ chi tiết về những cuộc phiêu lưu mạo hiểm trong suốt sáu năm ròng này.

14

CON ĐƯỜNG XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ SIDDHATTHA- ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:36:28

Những cuộc bàn luận triết lý kia hẳn đã gây ấn tượng sâu sắc vào tâm trí vị thái tử trẻ tuổi Siddhattha. Chàng nhận thấy sự lôi cuốn mãnh liệt của phong trào chống thần giáo Vệ-đà và việc gia nhập các đoàn Sa-môn có sức hấp dẫn đặc biệt. Như thái tử đã hơn một lần khẳng định: “Đời sống tại gia đầy bất tịnh thật là chật hẹp _ còn đời Sa-môn tự do như bầu trời khoáng đạt”. Ta đã thấy đoạn văn miêu tả việc thái tử xuất gia trong Nidànakathà(Duyên Khởi Luận), quyển luận xuất hiệnvào khoảng thế kỷ thứ năm CN là sớm nhất. Mặc dù có tính cách huyền thoại, sách này vẫn chứa đựng những câu phát biểu rất có thể xuất phát từ một truyền thống đích thực. Nếu ta đặt bản văn này bên cạnh những lời tự thuật rất hiếm hoi nhưng đáng tin cậy của thái tử Siddhattha sau khi ngài thành Phật, ta có thể có vài ý niệm về cách ngài từ giã đời thế tục như thế nào.

15

PHONG TRÀO ĐI TÌM GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO GIÁO -ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:34:47

Với một dân tộc mang đậm màu sắc tôn giáo như người Ấn Độ, và lại hăng say đi tìm kinh nghiệm tâm linh, thì phản ứng chống đối cách tế lễ của Bà-la-môn theo kinh Vệ-đà trong hình thức suy tàn máy móc như vậy là điều không thể nào tránh khỏi. Việc này bắt đầu vào thế kỷ thứ bảy trước CN, được thấy phổ biến trong các đám thanh niên và đến thế kỷ thứ sáu, đã phát triển thành một phong trào tư tưởng mạnh mẽ. Đó không phải là một cuộc cách mạng, vì nó vẫn giữ tính khoan dung, chỉ chống đối đạo giáo đầy tế lễ ấy qua các cuộc tranh luận công khai. Đó là một phong trào tư tưởng không có tổ chức, tự rời bỏ tôn giáo truyền thống và đi tìm những cứu cánh tâm linh mới, nên nó chấp nhận những con đường mới. Một số con đường ấy sau một thời gian đã trở thành tà đạo không đưa đến đâu cả, còn một số khác lại đưa đến những đỉnh cao chưa từng được mơ tưởng trước kia. Vào thế kỷ thứ 6 trước CN, trí tuệ người Ấn Độ đã đạt các đỉnh cao triết lý và đạo giáo vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.

13

TẾ LỄ THEO KINH ĐIỂN VỆ-ĐÀ -ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:33:18

Hiển nhiên đạo giáo chuyên tế lễ thần linh của thế kỷ thứ sáu trước CN làm thất vọng bất cứ người nào có tâm nguyện đúng đắn về đạo giáo. Niềm say mê tiên tri là điều một ngàn năm trước đã khiến cho những nhà hiền triết Ấn Độ gốc Ariyan nghe được tri thức (Veda) của thần linh tự trong tâm và chuyển những gì đã nghe (Sruti) thành các khúc đạo ca, và niềm tự hào về thơ văn thúc đẩy họ thâu thập các khúc đạo ca tạo thành bộ sách Vệ-đà, “tri kiến thần linh”, rồi tán tụng chúng theo những nhịp điệu trang nghiêm trong lễ tế đàn, tất cả những thứ ấy không còn nữa.

12

MỘT KINH THÀNH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI -ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:32:18

Có lẽ thái tử Siddhattha không ham thích công việc đồng áng vì bản chất thiên về suy tư. Đời thái tử có nhiều thời kỳ ẩn cư xen lẫn những thời kỳ tiếp xúc với quần chúng. Vị thái tử trẻ tuổi này ắt hẳn đã nhiều phen đi quanh quẩn khắp kinh thành Kapilavatthu với đôi mắt mở to để quan sát việc đời: hoặc trao đổi vài câu chuyện với người thợ nhuộm, hoặc nêu vài nhận xét với người luyện voi, hoặc chào hỏi người cho vay nào đó. Các chuyện ngụ ngôn tỷ dụ về đủ ngành nghề mà ta thấy trong kinh ngài thuyết giảng chứng tỏ ngài hẳn đã quan sát mọi hoạt động khác nhau trong kinh thành một cách tinh tế và đầy hiểu biết.

13

THÁI TỬ SIDDHATTHA, VỊ HOÀNG NAM - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha

2025-10-28 15:20:08

Chuyện các vương tử của vua Suddhodana thừa hưởng địa vị đặc biệt trong thành Kapilavatthu nhờ vương quyền thân phụ là điều hiển nhiên không cần bàn đến. Trong khi đa số quần chúng sống trong nhà tranh vách đất hay lều tre nứa lau sậy, còn ở các vùng thấp của kinh thành, nhà dựng trên cọc tre để tránh nạn lũ lụt theo gió mùa và chuột rắn bò cạp xâm nhập, thì các vương tử sống trong nhà của vua cha, mà vì nhà gồm có nhiều tầng nên gọi là “Hoàng cung”. -Cung vua hẳn được xây bằng gạch trên một khoảng đất hơi cao và có tường đất bao quanh chứng tỏ đấy là vùng cấm địa được phòng vệ của riêng quốc vương. Gần đó là ao sen đủ màu xanh đỏ trắng.

13

KINH THÀNH KAPILAVATTHU VÀ VỊ QUỐC VƯƠNG - ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ The Historical Buddha H.W. Schumann (1982)

2025-10-28 15:17:35

Nếu thời niên thiếu, hoàng tử Siddhattha nhìn ra phương bắc, chàng thường thấy rặng núi trùng điệp nhấp nhô đến tận chân trời. Theo chàng biết, nơi này chỉ xa khoảng tám yojana: do-tuần (80km) nhưng rất khó đến, vì thành Kapilavatthu bị ngăn cách rặng núi bằng một dãi lau sậy và rừng rậm đầy hổ báo, voi, tê giác lai vãng và nhiều người liều lĩnh băng qua rừng rậm này đều chết vì sốt rét. Song nếu ta vượt qua chướng ngại này thì mặt đất lại bằng phẳng lên cao dần và ta đến vùng đồi cỏ cây thưa thớt. Phía sau các chân đồi (nay là Sivalik hay Churia) là một thung lũng xanh tươi và tiếp đó nữa lại là rặng núi Mahàbhàrata, từ thành Kapilavatthu ta có thể thấy được vài đỉnh núi này. Sau rạng núi tục truyền còn nhiều núi cao hơn nữa, đó là dãy Himavat hay Himàlayas (Tuyết Sơn) với các đỉnh tuyết hùng vĩ cao ngất tận trời xanh, đó là nơi tận cùng xứ Jambudìpa (Diêm-phù-đề) hay lục địa Hồng Đào này vậy.

12

VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH NIÊN ĐẠI -H.W. Schumann (1982) M. O' C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)

2025-10-28 15:16:08

Đa số sử gia Âu châu nghiên cứu Ấn Độ cho rằng năm 563 trước CN là năm sinh của đức Phật và cũng là niên đại sớm nhất được xác nhận. Niên đại ấy được tính toán cách nào và khả năng sai lạc lớn đến mức nào? a) Vì sử sách cổ Ấn Độ chỉ ghi các khoảng cách giữa các sự kiện mà không ghi niên đại của các sự kiện ấy như các sử sách về sau, cho nên muốn xác định niên đại trong sử Ấn Độ cần phải thỉnh cầu đến các sử gia Hy lạp. Các quan hệ Ấn - Hy phát triển là do kết quả chiến dịch Ấn Độ của Đại Đế Alexander (327 trước CN). Vào khoảng năm 303 trước CN, Hoàng đế Ấn Độ Candragupta Maurya (hay Candagutta Moriya, triều Khổng Tước) đạt được một thỏa hiệp về lãnh thổ và mở màn quan hệ ngoại giao với vị cựu đại tướng của vua Alexander là Seleukos Nikator hiện thời cai trị thành Babylonia. Qua các báo cáo của sứ thần Hy lạp là Megasthenes được bổ nhiệm đến thủ đô Pàtaliputta (Patna ngày nay), vua Candragupta dần dần được các sử gia Hy Lạp biết rõ qua danh hiệu Sandrokottos trong tiếng Hy lạp, và nhờ các sử gia này, chúng ta có thể tính niên đại ngài lên ngôi vào năm 321 trước CN.

13

NGUỒN GỐC THÁI TỬ SIDDHATTHA VÀ SỰ ĐẢN SANH CỦA NGÀI

2025-10-28 15:14:57

Kapilavatthu, quê hương đức Phật, nơi ngài sống hai mươi chín năm đầu tiên trong đời, ở sát biên giới ngày nay ngăn chia nước Nepal và cộng hòa Ấn Độ. Phụ vương đức Phật mệnh danh Suddhodana (Tịnh Phạn)* thuộc bộ tộc Sakiya. Bộ tộc Sakiya gồm toàn các vị Sát-đế-lỵ quý tộc vào thời ấy là thành phần giai cấp cao sang, giai cấp võ tướng hay hơn nữa là đại thần lãnh trách nhiệm cai trị và xử án tại cộng hòa Sakiya. Từ các chức vụ này, vị tân vương thống trị nước cộng hòa và đại diện toàn dân được bầu lên khi có nhu cầu. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ sáu trước CN, vua Tịnh Phạn giữ ngôi vị Quốc trưởng.

12

BỐI CẢNH VÀ NỀN CHÍNH TRỊ Ở BẮC ẤN THẾ KỶ THỨ SÁU TRƯỚC CN

2025-10-28 15:13:41

Trên sân ga thành phố Đại Học Bắc Ấn ở Gorakhpur, ta có thể thấy ngoài số du khách Ấn Độ, còn có du khách từ Nhật Bản, Srilanka, Thái Lan, Miến Điện cũng như đám người Tây Tạng tha hương và du khách Tây phương nữa. Họ là những người chiêm bái, trên đường đi viếng nơi đức Phật đản sanh tại Lumbini (Lâm-tì-ni) và nơi Ngài diệt độ tại Kusinàrà (Câu-thi-na). Vì bình nguyên Bắc Ấn này nằm giữa vùng đồi núi Himalayas (Tuyết Sơn) và lưu vực sông Gangà (Hằng Hà) là thánh địa Phật giáo, chính tại đây đức Phật tuyên bố các Thắng Trí của Ngài, khoảng giữa năm 528 và năm 483 trước Công Nguyên, và cũng là nơi khai sinh Giáo hội Tăng già đầu tiên. Từ đây, lời dạy của bậc Đạo Sư bắt đầu bước đường chinh phục nhiều vùng châu Á một cách hòa bình êm đẹp.

13

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T09. Chương 08 Phần cuối - Thư mục Tham khảo

2025-09-23 11:09:33

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

87

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T08. Chương 07 Cuộc hồi hương vĩ đại (485 TCN)

2025-09-23 11:09:32

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

87

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T07. Chương 06 Các Năm Sau

2025-09-23 11:09:31

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

77

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T06. Chương 05 Đức Phật Gotama và các phương diện tâm lý

2025-09-23 11:09:30

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

62

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T05. Chương 04 Giáo lý, Tăng chúng, và giới cư sĩ

2025-09-23 11:09:29

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

86

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T04. Chương 03 Hai Mươi Năm Đầu Tiên (528-508 Tcn)

2025-09-23 11:09:28

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

50

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T03. Chương 02 Thành Lập Giáo Hội Và Khởi Đầu Hoằng Pháp (528 Tcn)

2025-09-23 11:09:27

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

56

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T02. Chương 01 Thời Niên Thiếu - Cuộc Tầm Cầu - Giác Ngộ (563 - 528 Tcn)

2025-09-23 11:09:26

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

64

ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ.H.W. Schumann_T01. Lời Giới Thiệu

2025-09-23 11:09:07

H. W. Schumann là học giả người Đức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Độ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Đại học Bonn (Đức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Đại học Ấn Độ ở Benares, Ấn Độ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Đức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Đức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng Ấn Độ tại Bộ Ngoại giao Đức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh sự của CHLB Đức tại Bombay (Ấn).

52

Cập nhật mới 22-9-2025

2025-09-21 22:03:14

Cập nhật mới 22-9-2025 + Thêm 1 số nhân vật mới xuất hiện ở trung , trường , Tiểu bộ kinh phần tiền thân + Thêm phần tiền thân liên quan ở mỗi nhân vật + Thêm các nhân vật xuất hiện trong các bài kinh : trung trường và tiểu bộ Nikya + Chỉnh sửa 1 số nhân vật.

101

Những cập nhật ngày 3/9/2025

2025-09-02 19:03:47

Những cập nhật ngày 3/9/2025

160

NTPG.Q10.B14 Nghi Thức Thọ Pháp-Hành Thiền-Tuệ

2025-08-18 17:36:20

Lễ thọ pháp-hành thiền-tuệ là việc làm theo truyền thống từ thời-kỳ Đức-Phật cho đến nay. Khi Đức-Phật còn trên thế gian, các tỳ-khưu đền hầu đảnh lễ Đức-Phật kính xin thọ pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền- tuệ, rồi tìm nơi thanh vắng để thực-hành, hoặc đến xin thọ pháp-hành nơi Ngài Đại-trưởng-lão, hoặc Ngài Trưởng-lão, hoặc Ngài Thiền-sư, v.v… Trước khi làm lễ thọ pháp-hành thiền-tuệ, nếu hành- giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên làm lễ thọ tam-quy và chánh-mạng đệ-bát-giới (ājīvaṭṭhamakasīla) nghĩa là giới thứ 8 là giới-chánh-mạng từ vị Thiền-sư.

130

NTPG.Q10.B13 Bốn Thánh-Đạo-Tuệ (Maggañāṇa)

2025-08-18 17:35:30

Thánh-đạo-tuệ (maggañāṇa) có 4 bậc, mà mỗi bậc Thánh-đạo-tuệ có khả năng đặc biệt diệt tận được (samucchedappahāna) tham-ái, phiền-não, ác-pháp theo năng lực của mỗi Thánh-đạo-tuệ như sau: Ba loại tham-ái (taṇhā) Tham-ái (taṇhā) đó là tham tâm-sở (lobhacetasika) đồng sinh với 8 tham-tâm (lobhacitta) là nhân sinh khổ- đế dẫn dắt tái-sinh kiếp sau trong ba giới bốn loài. Tham-ái có 3 loại:

143

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state