Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Ấn Quang Đại sư – Vị Tổ thứ 13 của Tịnh độ tông
Đại sư trì giới tinh nghiêm, giữ mình rất kiêm ước. Đồ phục dụng tốt đẹp cùng thức ăn ngon quý người đem đến dâng, nếu không từ khước được, cũng chuyển tặng cho những vị xuất gia khác. Ấn Quang Đại sư, húy Thánh Lượng, biệt hiệu Thường Tàm, người khoảng cuối đời nhà Thanh sang kỷ nguyên Dân Quốc, con nhà họ Triệu ở Hiệp Tây.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:260

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Ấn Quang Đại sư – Vị Tổ thứ 13 của Tịnh độ tông

Ấn Quang Đại sư – Vị Tổ thứ 13 của Tịnh độ tông

Đại sư trì giới tinh nghiêm, giữ mình rất kiêm ước. Đồ phục dụng tốt đẹp cùng thức ăn ngon quý người đem đến dâng, nếu không từ khước được, cũng chuyển tặng cho những vị xuất gia khác.

Ấn Quang Đại sư, húy Thánh Lượng, biệt hiệu Thường Tàm, người khoảng cuối đời nhà Thanh sang kỷ nguyên Dân Quốc, con nhà họ Triệu ở Hiệp Tây.

Thuở bé, Ngài học Nho. Lớn lên, lấy việc duy trì đạo Khổng làm trách nhiệm, nên theo thuyết cúa Hàn Dũ, Âu Dương Tu, bài bác Phật pháp. Sau khi bệnh mấy năm, tự xét biết lỗi lầm, liền cải hối tâm niệm trước.

Niên hiệu Quang Chữ thứ Bảy đời T​hanh, vừa sang 21 tuổi, căn lành thuần thục, Ngài xuất gia với Đạo Thuần hòa thượng tại chùa Liên Hoa Động ở núi Chung Nam. Ít lâu sau, lại được duyên thọ đại giới nơi chùa Song Khê, huyện Hưng An với luật sư Ấn Hải Định.

 Đại sư Ấn Quang

Ngài từng bị đau mắt khi sinh ra vừa sáu tháng, sau tuy lành bệnh nhưng mục lực đã suy kém. Mắt vừa hơi đỏ, chỉ nhìn thấy cảnh vật lờ mờ. Lúc thọ giới Cụ túc, vì Ngài cẩn thận và viết chữ khéo, nên được cử làm chức Thư ký. Do viết chữ quá nhiều, đôi mắt lại phát đỏ như huyết.

Lúc trước, nhân khi phơi kinh, được xem bộ Long Thơ Tịnh Độ, biết rõ công đức niệm Phật, nên kỳ thọ giới này, ban đêm sau khi chúng an nghỉ, Ngài vẫn ngồi niệm Phật, ban ngày cho đến lúc viết chữ, tâm cũng không rời Phật. Nhờ đó, tuy đôi mắt phát đỏ, vẫn có thể gắng gượng biên chép. Khi giới đàn vừa mãn, bệnh đau mắt cũng được lành. Do đây, Ngài biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn! Và nhân duyên này cũng là đầu mối khiến Ngài quy hướng Tịnh độ, và khuyên người niệm Phật. Từ đó, Đại sư tiến bước trên đường tu học, trải qua các danh lam: Từ Phước Tự, Long Tuyền Tự, Viên Quảng Tự, và sau cùng đến chùa Pháp Võ ở Phổ Đà Sơn.

Trong thời gian ấy, khi thì tham học, lúc duyệt Tam tạng kinh, khi lại nhập thất, nên Ngài ngộ sâu đến Thượng thừa, lý sự đều vô ngại. Đại sư kiến thức cao siêu, làm việc cẩn thận nên hai phen được Hóa Văn hòa thượng và Đế Nhàn pháp sư mời làm đồng bạn đến đế đô thỉnh ba tạng kinh cho Pháp Võ Tự ở Phổ Đà Sơn và Đầu Đà Tự tại Ôn Châu. Cảm mến hạnh đức, Hóa Văn hòa thượng thỉnh Ngài về ở lầu Tàng Kinh tại chùa Pháp Võ để tĩnh tâm tu niệm. Tính đến cuối đời nhà Thanh, trong hơn ba mươi năm xuất gia, Đại sư trước sau tới lui giao tiếp để hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật Tam-muội.

Nhưng chuông trống tuy đánh bên trong, tiếng thanh vẫn vang ra ngoài. Cao Tăng dù muốn ẩn mình, Thiên long cũng đưa duyên phổ hóa. Niên hiệu Trung Hoa Dân Quốc năm đầu, Cư sĩ Cao Hạt Niên nhân khi hành hương đến chùa Pháp Võ, lúc trở về đem vài bài văn của Đại sư đăng lên Phật Học Tòng Báo ở Thượng Hải, dưới đề tên là Thường Tàm. Tuy chưa biết đó là ai, nhưng văn tự Bát-nhã đã khiến cho độc giả phát khởi căn lành, nhiều người đua nhau dò hỏi chỗ ở. Lúc ấy, Đại sư vừa đúng 52 tuổi. Mấy năm sau, tung tích cũng bị người tìm biết được; lần lượt kẻ vượt bể lên non cầu lời khai thị, người mượn tin hồng nhạn hỏi lối nam châm. Cư sĩ Từ Huất Như sưu tầm văn tín của Ngài in thành bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, tái bản và tăng đính nhiều lượt, truyền bá cả trong đến ngoài nước.

Ban sơ, khi họ Từ cư sĩ đem mẹ lên núi cầu xin quy y, Đại sư còn bền chí ẩn tu không chịu chấp nhận, bảo sang quy y với Đế Nhàn pháp sư ở chùa Quán Tông tại Ninh Ba. Đến năm Dân Quốc Thư Tám, Cư sĩ Châu Mạnh Do đem quyến thuộc lên núi, ba bốn phen đảnh lễ cầu khẩn, xin thâu làm đệ tử tại gia. Đại sư quán xét cơ duyên, lý khó khước từ, bất đắc dĩ phải chấp thuận. Tính đến năm ấy, Ngài được 59 tuổi, mới thâu đệ tử quy y lần đầu. Từ đó, hàng thiện tín kẻ viết thư cầu làm đệ tử, người lên non xin được quy y, tất cả đều y giáo phụng hành, ăn chay niệm Phật. Trong một đời giáo hóa, đệ tử tại gia của Đại sư từ hạng quyền quý giàu sang, danh nhân học sĩ đến kẻ thôn giã thường dân, số lên đến gần ba trăm ngàn người. Có nhiều vị niệm Phật tu hành được sinh về Cực Lạc.

Đại sư trì giới tinh nghiêm, giữ mình rất kiêm ước. Đồ phục dụng tốt đẹp cùng thức ăn ngon quý người đem đến dâng, nếu không từ khước được, cũng chuyển tặng cho những vị xuất gia khác. Còn phẩm vật thông thường thì đều chuyển giao cho nhà kho của chùa, để dại chúng cùng thọ hưởng. Bao nhiêu số tiền của dân tín cúng dường riêng cho mình, Ngài đều đem in kinh sách, hoặc cứu tế các nạn tai, hay giúp vào những cơ quan từ thiện. Riêng mình, chỉ giữ phần cơm thô áo vải đến trọn đời.

Đại sư tánh không thích phô trương. Có vài Phật tử mến đức tìm tới tận quê nhà, sưu tập sự tích từ khi Ngài còn bé qua giai đoạn xuất gia và ra đời hoằng hóa, viết thành tuyệt ký, rồi gởi đến xin hiệu chính để ấn tống lưu truyền rộng ra, Ngài đều khước từ, gởi nguyên bản trả lại, khuyên xin vì mình mà dẹp bỏ đi. Hai vị hiển quan: Đào Tại Đông và Hoàng Hàm Chi có viết thư đem đạo hạnh của Đại sư trình lên Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc. Ngài được Từ Tổng Thống phong tặng tấm biển đề “Ngộ Triệt Viên Minh”, sai đoàn đại biểu đem đến tận chùa Phổ Đà, cùng hiến dâng nhiều hương hoa phẩm vật, song riêng Ngài vẫn thản nhiên dường không hay biết.

Đại sư có ba điểm đặc biệt khác hơn những vị xuất gia đương thời:

v Một là không lãnh làm trụ trì tự viện lớn, vì cho mình kém đức, e chướng ngại đến sự thanh tu.

v Hai là không thâu đệ tử xuất gia, vì xét thấy vào thời mạt pháp đã sâu, người xứng đáng với bổn phận xuất gia rất ít, nên không muốn gây nhiều hệ lụy.

v Ba là không quyên mộ khuyến hóa, bởi thẹn thấy nhiều kẻ vì lợi danh mà làm mất sự thanh khiết của nhà tu.

Về duyên hoằng hóa, Đại sư, quán xét vào thời mạt vận đạo đức lần suy, nhân căn hầu hết đều kém yếu, phần đồng chỉ ở trình độ giữ Tam quy, Ngũ giới, niệm Phật ăn chay mà thôi, như thế cũng gọi là đã có nhiều căn lành rồi, còn hạng siêu xuất thì thật ra tuyệt ít. Vì thế, đại khái Ngài chỉ khuyên giữ trọn luân thường, tin chắc nhân quả, lánh dữ làm lành, Tín Nguyện niệm Phật, cầu sinh Tây Phương. Người đáng chiết phục, dù bậc Thiền túc cự Nho, đạt quan danh sĩ, cũng thẳng thắn chỉ trích. Kẻ đáng nhiếp thọ, tuy hàng sơ học hậu sinh, nông công nô bộc, cũng từ ái khuyên dạy. Cách giáo hóa của Ngài, chỉ đem những sự lý thiết thực bình thường để khuyến ích, tuy chính mình hiểu sâu tông giáo, song không chuộng huyền luận cao đàm.

Đại sư thường tán trợ vào các hội niệm Phật phóng sinh, khuyên giúp vào các viện Từ ấu, Dưỡng lão. Ngài cũng sáng lập ra Hoằng Hóa Xã, giao cho người coi sóc, mình lãnh phần chỉ đạo, để ấn tống hoặc phát hành kinh sách và tượng Phật, Bồ-tát và hơn năm triệu bộ kinh sách thích ứng với thời cơ.

Về công trình hộ pháp, lúc Âu chiến lần thứ nhất, chính quyền có nghị định cho dời những kiều dân người Đức vào ở các chùa. Đại sư cố gắng vận động với các bậc quyền thế, khiến cho bỏ qua việc đó. Từ năm Dân Quốc thứ hai đến năm Dân Quốc thứ 25, đã nhiều phen chính phủ theo lời đề nghị của những nhà đương quyền có óc duy vật, lần lượt đăng báo muốn sung tài sản chùa chiền vào công quỹ, chiếm các tự viện làm trường học. Đại sư họp sứ cùng chư Tăng sĩ và các Cư sĩ hộ pháp, lập cách giải cứu, khiến cho đều được nạn thoát tai qua. Ngoài ra, các tiểu tiết khác, Ngài chỉ tùy thời dùng đôi lời nói, hoặc một phong thơ đều tiêu kiếp nạn.

Về phần linh cảm, năm Đại sư 70 tuổi, được Tăng chúng thỉnh về chùa Báo Quốc. Và cuối mùa Hạ, nơi đây sinh ra loài rệp rất nhiều. Từ gối chăn màn nệm, đến cửa sổ án kinh, đâu đâu cũng thấy chúng bò lai vãng. Hàng đệ tử thương Ngài tuổi già sợ không kham chịu sự quấy nhiễu, xin vào để tìm cách thâu nhập. Đại sư không chấp thuận, chỉ yên tâm niệm Phật cầu nguyện cho chúng đi, không bao lâu loài rệp đều tuyệt tích. Ngoài thời niệm Phật, Ngài thường tụng chú Đại Bi vào tàn hương, gạo, hoặc nước, để cứu những bệnh nặng mà các y sĩ đều bó tay. Mỗi lần như thế đều ứng nghiệm kỳ lạ.

Một hôm, nơi lầu Tàng Kinh chùa Báo Quốc, phát hiện ra vô số mối trắng. Ngài hay được liền trì chú Đại Bi trong nước, bảo đem đến vẩy vào chúng. Loài mối đều kéo nhau bỏ đi nơi khác. Cư sĩ Cao Hạt Niên có lời tự thuật: “Sở dĩ ông biết Ấn Quang đại sư là bậc cao Tăng, bởi Ngài nói những lời rất thông thường, nhưng càng suy ngẫm càng thấy đúng với hiện cảnh và sau đó đều ứng nghiệm”. Kỳ lên núi Phổ Đà lần thứ Nhất, lúc nhà Thanh hãy còn, nhân ngụ tại chùa lâu ngày, Cư sĩ có hỏi Đại sư về cuộc diện mai sau. Ngài ứng khẩu đáp bằng một bài thơ:“Tuần hoàn kiếp số rất bi thương!Thoát khổ đâu hơn Cực Lạc bang?Gắng niệm Di-đà về bản cảnhĐừng mê trần lụy lạc tha hương.Bụi hồng nghiệp trước đời hư mộngLửa đỏ ngày sau nước họa ươngKhuyên sớm xa nơi nhiều kiếp nạn

Cùng nhau dạo bước đến Liên phương”.

Trong bài thơ, Ngài ám chỉ nạn binh hỏa về sau, và khuyên người niệm Phật vậy.

Năm Dân Quốc thứ 17, Đại sư thành lập Tịnh Độ Đạo Tràng tại chùa Linh Nham, soạn ra chương trình quy củ giao cho Chân Đạt hòa thượng nhiếp chúng trụ trì. Từ đó, Ngài về ở Tịnh thất tại Tô Châu. Sau thời niệm Phật, Đại sư họp cùng Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, tu chỉnh bốn quyển Danh Sơn Chí, nói về linh tích các núi: Phổ Đà, Thanh Lương, Nga Mi và Cửu Hoa.

Năm 70 tuổi, vì chiến cuộc bức bách, Ngài từ Tô Châu dời về Linh Nham, an cư niệm Phật ba năm.

Năm Dân Quốc thứ 29, ngày 24 tháng 10, Đại sư dự biết kỳ vãng sinh, cho triệu tập chư Tăng và Cư sĩ về chùa Linh Nham. Trong buổi hội đàm, Ngài suy cử Diệu Chơn hòa thượng kế nhiệm trụ trì, dặn dò các việc mai sau, và bảo: “Pháp môn niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ, chỉ cần khẩn thiết chí thành, thì không ai chẳng được Phật tiếp dẫn”.

Qua ngày mùng 04 tháng 11, Đại sư cảm bệnh nhẹ, song vẫn tinh tấn niệm Phật. Niệm xong, bảo đem nước rửa tay, rồi đứng lên nói: “Phật A-di-đà đã đến tiếp dẫn, tôi sắp đi đây! Đại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về Tây Phương!”. Nói đoạn, bước lại ghế ngồi kiết già, chấp tay trì danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng rồi an lành viên tịch. Lúc ấy, Đại sư tăng lạp được 60, thọ thế 80 tuổi.

Rằm tháng Hai năm sau, nhằm Thánh tiết Phật nhập Niết-bàn, cũng vừa đúng kỳ Đại sư vãng sinh được một trăm ngày, hàng đạo tục các nơi hội về Linh Nham trên hai mươi ngàn người, sắp đặt lễ Trà-tỳ. Lúc ấy, bầu trời hốt nhiên sáng tạnh trong trẻo. Khi Chân Đạt hòa thượng cầm đuốc cử hỏa, khói bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng năm sắc. Hôm sau, Diệu Chơn hòa thượng cùng đại chúng đến nơi khám nghiệm, thấy Xá-lợi hiện ra nhiều hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc. Tất cả đều cứng như khoáng chất, gõ vào phát ra tiếng trong thanh. Đại chúng lựa chia thành sáu phần:

1. Nha sỉ Xá-lợi, gồm ba mươi hai cái răng

2. Ngũ sắc Xá-lợi châu, nhiều hạt tròn sáng.

3. Ngũ sắc tiểu Xá-lợi hoa, hình như các đóa hoa nhỏ.

4.  Ngũ sắc đại Xá-lợi hoa, hình như những đóa hoa lớn.

5. Ngũ sắc huyết Xá-lợi, do huyết nhục hóa thành.

6. Ngũ sắc Xá-lợi khối, gồm những khối có nhiều hình dáng, màu sắc.

Tất cả đều để vào lồng kiếng, trân tàng tại bản sơn.

Kế tiếp, hàng Tăng Ni và đệ tử lễ bái thỉnh cầu, vị nào có thành tâm thì khi bới tro đều tìm kiếm được Xá-lợi. Như Quảng Hiệp pháp sư ở Tân Gia Ba, Pháp Độ Thượng Nhân ở Ngũ Đài, Cư sĩ Ngô Quốc Anh ở Phi Luật Tân, Cư sĩ Nhạc Huệ Võ ở Thượng Hải, mỗi vị đều được Xá-lợi màu xanh, màu vàng, huyết sắc hoặc ngũ sắc.Đại sư lúc bình thời, ngôn hạnh chân thật, không biểu thị điều chi kỳ lạ, nên chẳng thể biết Ngài chứng đắc đến đâu. Song hàng Tăng tục xét qua đạo hạnh, sự hoằng hóa thuở còn sinh tiền, đến việc quy Tây và lưu Xá-lợi khi viên tịch, đều nhận định Ngài là bậc Thánh nhân tái lai để tùy cơ độ sinh và hộ trì chánh Pháp. Vì thế, nhân ngày kỷ niệm một năm viên tịch, các Liên hữu Tăng tục đồng suy tôn Đại sư làm vị tổ thứ mười ba của Liên tông.

HT.Thích Thiền Tâm (nguồn tư liệu về 13 vị Tổ của Tịnh độ tông)

.

 

Tham kháo https://chiasedaophat.com/an-quang-dai-su/

Ấn Quang Đại Sư là một bậc cao tăng vô cùng đức độ, uyên bác, được mọi người vô cùng sùng bái và ngưỡng mộ. Ngài là bậc thượng nhân, đấng Đại đạo sư, là tấm gương mẫu mực và cách sống và tu hành cho hàng vạn tín đồ Phật tử noi theo. 

 

Ấn Quang Đại Sư là ai?

Ấn Quang đại sư

Theo cuốn sách Tịnh Độ Tập Yếu có trích dẫn: “Ấn Quang Ðại Sư, tên húy Thánh Lượng, biệt hiệu Thường Tàm. Ngài sống trong khoảng cuối nhà Thanh sang kỷ nguyên Dân Quốc, con nhà họ Triệu ở Thiểm Tây. Thuở nhỏ ngài học chữ Nho, lớn lên lấy việc duy trì đạo Khổng Tử làm trách nhiệm, nên theo thuyết của Hàn Dũ, Âu Dương Tu bài bác Phật pháp.

Ngài từng bị đau mắt khi còn là trẻ sơ sinh vừa sáu tháng, về sau tuy lành bệnh thế nhưng thị lực đã bị suy kém. Mắt ngài vừa hơi đỏ thì chỉ nhìn thấy cảnh vật một cách lờ mờ. Khi ngài bị bệnh, tự xét biết lỗi lầm, liền cải hối tâm niệm trước kia. Vào năm niên hiệu Quang Chữ thứ bảy đời nhà Thanh, khi ngài vừa bước sang tuổi thứ 21, căn lành thành thục, cơ duyên đã đến, ngài xuất gia với Ðạo Thuần Hòa Thượng tại chùa Liên Hoa Ðộng ở núi Chung Nam.

Một số thông tin về quá trình tu hành, thành tựu của Ấn Quang Đại Sư

Trong quá trình tu hành khi mới xuất gia, Ấn Quang Đại Sư cần mẫn nghiên cứu kinh điển, hiểu sâu thông suốt pháp môn Tịnh độ, nhiếp hóa hết thảy các căn cơ. Ngài đã tự mình gánh lấy trách nhiệm hoằng dương Phật pháp để phổ độ chúng sanh nhằm hối cải việc bài xích đạo Phật trước kia. Ngài đã đi du hóa khắp nơi, có lúc ở Chung Nam, Hồng Loa, Phổ Đà… Ít lâu sau, ngài lại được phát hiện là duyên thọ Ðại Giới nơi chùa Song Khê, huyện Hưng An với luật sư Ấn Hải Ðịnh. Lúc thọ giới Cụ túc, vì ngài cẩn thận và viết chữ khéo cho nên được tiến cử làm chức thư ký.

Do viết chữ quá nhiều, đôi mắt của Ấn Quang Đại Sư lại phát đỏ như huyết. Lúc trước kia khi đi phơi kinh, ngài đã được xem bộ Long Thơ Tịnh Ðộ, biết rõ công đức niệm Phật, nên kỳ thọ giới này mà chuyên tu tu hành. Ban đêm sau khi dân chúng an nghỉ, ngài vẫn ngồi niệm Phật. Ban ngày cho đến lúc viết chữ, tâm cũng không rời Phật. Nhờ đó tuy đôi mắt của ngài vẫn phát đỏ, nhưng ngài vẫn có thể gắng gượng biên chép. Khi giới đàn vừa mãn, bệnh đau mắt của ngài vì thế cũng được chữa lành. Do đó, ngài biết rằng công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn. Chính nhờ nhân duyên này cũng là đầu mối khiến cho Ấn Quang Đại Sư quy hướng Tịnh Ðộ và khuyên mọi người nên niệm Phật mỗi ngày.

Ấn Quang đại sư

Ấn Quang Ðại Sư dần dần tiến bước trên con đường tu học, với sự trải qua các danh lam nổi tiếng như: Tư Phước Tự, Long Tuyền Tự, Viên Quảng Tự và sau cùng đến chùa Pháp Võ ở Phổ Ðà Sơn. Năm Dân Quốc thứ mười chín, ngài đã đến Tô Châu để sáng lập đạo tràng Tịnh Độ Linh Nham. Vì thấy chư Tăng có người không như pháp, nên ngài đã phát nguyện: Không trụ trì chùa viện, không thu đồ chúng, không hóa duyên, cũng không mở hội niệm Phật. Thường ngày, Ấn Quang Đại Sư không giao tiếp với hàng cư sĩ hay quan quyền; không cười hay nói, không phô trương công việc; không trước tác kinh sách hay sám hối công đức, mà chí khí của ngài vẫn cao, đức hạnh vẫn tinh khiết.

Cho đến cuối đời nhà Thanh, với hơn ba mươi năm xuất gia, Ấn Quang Ðại Sư trước sau mai danh ẩn tích. Ngài không thích cùng người tới lui giao tiếp để hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật tam muội. Có những hôm, ngài đóng cửa tịnh thất để viết thư phúc đáp, trả lời những điều vấn nạn cho bốn chúng học Phật. Bằng ngôn ngữ tinh tế, cùng với ý nghĩa sâu xa, ngài đã để lại trăm vạn lời tốt đẹp cho các lớp hậu bối có cơ hội học tập và noi gương.

Cuối năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ngày 24 tháng 10, Ấn Quang Ðại Sư dự biết kỳ vãng sanh (thời điểm sắp lìa xa cuộc đời). Ngài cho triệu tập chư Tăng và cư sĩ về chùa Linh Nham. Trong buổi hội đàm, Ngài đã đề cử Diệu Chơn Hòa Thượng để làm người kế nhiệm chức trụ trì, dặn dò cho các việc mai sau, và bảo: “Pháp môn Niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ. Chỉ cần khẩn thiết chí thành thì không ai chẳng được Phật tiếp dẫn”.

Qua ngày mùng 4 tháng 11 cùng năm, Ấn Quang Ðại Sư cảm bệnh nhẹ, song vẫn một lòng niệm Phật. Niệm xong, ngài bảo đem nước rửa tay, rồi đứng lên nói: “Phật A Di Ðà đã đến tiếp dẫn, tôi sắp đi đây. Ðại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về Tây phương!”. Nói đoạn, ngài bước lại ghế ngồi kiết già, chắp tay trì danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng rồi an lành viên tịch.

Khi mới mất, Ấn Quang Đại Sư tăng lạp được sáu mươi, thế thọ tám mươi tuổi. Rằm tháng Hai năm sau, nhằm thánh tiết Phật nhập Niết Bàn, cũng vừa đúng kỳ ngài vãng sanh đã được 100 ngày. Tất cả chư Tăng, Phật tử các nơi hội về Linh Nham trên hai ngàn người, sắp đặt lễ trà tỳ. Lúc ấy bầu trời bỗng nhiên sáng tạnh trong trẻo. Khi Chân Ðạt Hòa Thượng cầm đuốc để hỏa thiêu di thể của Ấn Quang Đại Sư, khói bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng với nhiều màu sắc.

Ấn Quang đại sư

Hôm sau Diệu Chơn Hòa Thượng cùng với đại chúng đến nơi khám nghiệm thi hài đã hỏa thiêu của Ấn Quang Đại Sư thì thấy: Xá lợi hiện ra nhiều hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc. Tất cả đều cứng như khoáng chất, gõ vào phát ra tiếng trong thanh. Ðại chúng sau đã phân loại, lựa chia thành sáu phần:

– Nha xỉ xá lợi: Gồm ba mươi hai cái răng.

– Ngũ sắc xá lợi châu: Nhiều hạt tròn sáng.

– Ngũ sắc tiểu xá lợi hoa: Hình như các đóa hoa nhỏ.

– Ngũ sắc đại xá lợi hoa: Hình như những đóa hoa lớn.

– Ngũ sắc huyết xá lợi: Do huyết nhục hóa thành.

– Ngũ sắc xá lợi khối: Gồm những khối có nhiều hình dáng, màu sắc khác nhau.

Tại sao Ấn Quang Đại Sư được xem là hóa thân của Đại Thế Chí Bồ Tát?

Có một câu chuyện được kể lại rằng, một năm nọ, ngài Ấn Quang Đại Sư đến Thượng Hải giảng Kinh A Di Ðà, có đăng tin tức trên báo, khiến cho nhiều người có duyên đến nghe kinh để gieo trồng căn lành, tích tụ công đức. Lần pháp hội đó được tổ chức rất long trọng trang nghiêm, rất nhiều người đến nghe kinh đều là tín đồ kiền thành.

Ấn Quang đại sư

Ðương thời, có một nữ cư sĩ, chẳng phải là Phật tử, ở trong mộng thấy có người mặc áo giáp màu vàng, bảo với cô ta rằng: “Con hãy đến Thượng Hải để nghe Bồ Tát Ðại Thế Chí giảng Kinh A Di Ðà.” Cô ta nhớ rất rõ ràng lời trong mộng như vậy. Ngày thứ hai sáng sớm khi xem báo, thì cô ta đã thấy tin tức người dân cung thỉnh Ngài Ấn Quang Đại Sư lên giảng Kinh A Di Ðà.

Cô ta vì tâm hiếu kỳ, mà đến chỗ được báo trong mộng để cầu kiến đại sư. Khi thấy Ngài Ấn Quang Đại Sư thì tự động đảnh lễ, bèn nói với ngài rằng: “Con chẳng phải là Phật giáo đồ, vì đêm hôm qua con nằm mộng thấy có người bảo con đến chỗ này để nghe Bồ Tát Ðại Thế Chí giảng Kinh A Di Ðà. Xin hỏi Ngài, có Phải Ngài là Bồ Tát Ðại Thế Chí?”

Lúc đó, Ngài Ấn Quang Đại Sư dơ tay thị ý: “Việc này, con biết, ta biết, đừng nói cho ai biết.” Vị nữ cư sĩ đó, sau buổi trò chuyện với đại sư bèn quy y Tam Bảo, cuối cùng vẫn giữ tin này bí mật, chẳng thổ lộ với bất cứ ai. Ba năm sau, khi ngài Ấn Quang Đại Sư viên tịch trên núi Linh Nham, thì vị cư sĩ này mới tuyên bố thông tin trước kia ở trước mặt công chúng. Lúc đó, mọi người mới biết Ngài Ấn Quang Đại Sư chính là hóa thân của Bồ Tát Ðại Thế Chí, Bồ Tát thừa nguyện trở lại. Ðời sau, mọi người tôn xưng ngài là Tổ Sư thứ mười ba của Liên Tông.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state