Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Ashoka Đại Đế (A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa
Ashoka Đại Đế (br. 𑀅𑀲𑁄𑀓 sa. aśoka, pi. asoka, zh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. maurya, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN.[1] Là một trong những hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông hối hận, Quy y Tam Bảo và đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni. Theo truyền thống Phật giáo, tên tuổi của ông gắn liền với việc truyền bá Phật giáo.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:450

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Ashoka Đại Đế (A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa

A-dục vương

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Ashoka Đại đế
Hoàng đế Mauryan
Trị vì 273 – 232 trước Công nguyên
Tiền nhiệm Bindusara
Kế nhiệm Dasaratha Maurya
Thông tin chung
Sinh 304 trước TCN
Pataliputra (Patna ngày nay)
Mất 232 TCN
Pataliputra
Hoàng hậu Maharani Devi
Hoàng phi
hiệnHoàng phi
Hậu duệ
hiệnHậu duệ
Tên đầy đủ
Asok Bindusara Maurya
Tước vị
hiệnTước vị
Triều đại Nhà Maurya
Thân phụ Bindusara
Thân mẫu Rani Dharma
hay còn gọi là Subhadrangi
Tôn giáo Phật giáo

Ashoka Đại Đế (br𑀅𑀲𑁄𑀓 saaśokapiasokazh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. maurya, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN.[1] Là một trong những hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông hối hận, Quy y Tam Bảo và đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni. Theo truyền thống Phật giáo, tên tuổi của ông gắn liền với việc truyền bá Phật giáo.

Vào khoảng năm 260 TCN Ashoka tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nhà nước Kalinga (ngày nay là Odisha).[2] Ông đã chinh phục Kalinga, điều mà tiên đế của ông là Chandragupta Maurya chưa bao giờ làm được. Ông xây dựng trung tâm cơ quan quyền lực của đế chế Maurya ở Magadha (nay là Bihar). Ông trở nên đề cao Phật giáo sau khi chứng kiến nhiều chết chóc trong chiến tranh Kalinga, mà bản thân ông đã thực hiện do khát vọng mở rộng đế quốc của mình. "Ashoka suy ngẫm về trận chiến ở Kalinga, cuộc chiến mà người ta ngẫm rằng đã làm hơn 100.000 người chết và 150.000 người khác bị trục xuất."[3] Ashoka đã quy y Tam bảo vào khoảng 263 TCN.[2] Sau đó ông đã hoằng dương giáo pháp nhà Phật ra khắp châu Á, và thiết lập các di tích đánh dấu nhiều địa danh quan trọng trong cuộc đời truyền pháp của Phật tổ Thích-ca Mâu-ni.[4]

Tên ông cũng được gọi theo dịch tiếng Hán Việt khác là A-du-ca (zh. 阿輸迦), A-du-già (阿輸伽), A-thứ-già (阿恕伽), A-thú-khả (阿戍笴), A-thúc (阿儵), hoặc dịch nghĩa là Vô Ưu (無憂), hoặc như ông tự khắc trên những cột trụ nổi danh được lưu đến ngày nay là Thiên Ái Hỉ Kiến (zh. 天愛喜見, sa. devānaṃpriya priyadarśi), nghĩa là "người được chư thiên thương, người nhìn sự vật với tấm lòng hoan hỉ". Ông là vị quân vương đầu tiên của nước Ấn Độ xưa (sa. bhāratavarṣa) đã thống nhất được một lãnh thổ vĩ đại, lớn hơn ngay cả Ấn Độ ngày nay.

Tài liệu nguồn lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Một mảnh đá của Thạch trụ khắc văn thứ 6 (en. 6th Pillar Edicts) của A-dục vương, được viết bằng Chữ Phạn cổ (古梵文, sa. brāhmī). Bảo tàng Anh quốc

Các thông tin lịch sử về cuộc đời và thời gian cai trị của vua A-dục có nguồn từ một số tài liệu Phật giáo tương đối nhỏ. Đặc biệt là tác phẩm tiếng Phạn A-dục vương truyện (sa. aśokāvadāna) và hai bộ sử của Tích Lan là Đảo sử (zh. 島史, pi. dīpavaṃsa) và Đại sử (zh. 大史, pi. mahāvaṃsa) cung cấp hầu như tất cả những thông tin ngày nay có được. Những thông tin đi sâu hơn được các bản khắc văn của chính vua A-dục cung cấp (xem A-dục vương khắc văn), sau khi tác giả của những khắc văn này là Thiên Ái Hỉ Kiến được xác nhận là A-dục vương trong các văn bản Phật giáo, là tên khác của A-dục Khổng Tước (pi. asoka mauriya)

Việc dùng tài liệu Phật giáo để tu phục lại cuộc đời của vua A-dục đã gây ảnh hưởng lớn đến cách nhận thức A-dục hiện nay cũng như cách diễn giảng các văn bản khắc trên trụ và vách đá của ông. Lập cơ sở trên những tài liệu này, các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng, ông chủ yếu là một quân vương Phật giáo, trải qua một cuộc chuyển hóa tâm thức, đến với Phật giáo và sau đó chủ động hỗ trợ Phật giáo và Tăng-già.

Các nhà nghiên cứu gần đây đặt câu hỏi về những sự kiện trên, bởi vì những nguồn tài liệu ngoài truyền thống Phật giáo, chính các bản khắc văn của A-dục ít nói đến những điểm giáo lý, triết học Phật giáo, mặc dù khái niệm "Đạt-ma" (zh. 達磨, sa. dharma, pi.dhamma) được nhắc rất nhiều lần. Một vài học giả diễn giảng là đây chính là dấu hiệu của việc A-dục muốn lập một tôn giáo quần chúng có tính cách bao gồm, đa tôn giáo cho quân vương của mình (Romila Thapar); và tôn giáo quần chúng này đặt cơ sở trên khái niệm Đạt-ma như một năng lực luân lý, nhưng không ủng hộ hoặc đề cao bất cứ một triết lý có thể gán vào những trào lưu tôn giáo triều vua A-dục (ví như Kì-na giáoBà-la-môn giáo hoặc Sinh kế giáo, sa. ājīvika).

Tuy nhiên, như A.W.P. Guruge cho thấy bằng nhiều ví dụ từ kinh tạng Pali, thuyết tôn giáo quần chúng bên trên không có lập trường vững chắc. Trong mọi trường hợp, tất cả các học giả hiện này đều nhất trí là A-dục đã trị nước với một tấm lòng nhân ái, khoan dung đối với tất cả những trào lưu tôn giáo thời đó.

Cái tên A-dục, hay Ashoka có nghĩa là "không đau khổ" trong tiếng Sanskrit. Trong các sắc lệnh ông tự xưng là Devaanaampriya hay là "Người được thần linh phù hộ".

H.G. Wells viết về vua A-dục:

Trong lịch sử của thế giới có hàng ngàn vị vua và hoàng đế tự xưng là 'ngôi cao', 'hoàng đế', 'quốc vương', v.v. Họ chỉ sáng bừng trong chốc lát rồi tàn lụi nhanh chóng. Nhưng A-dục vương tỏa sáng và vẫn tỏa sáng như một ngôi sao sáng, cho đến tận ngày hôm nay.

Truyền thuyết về ông được lưu lại trong Ashokavadana ("Chuyện kể về A-dục vương") trong thế kỷ thứ II và Divyavadana ("Chuyện kể linh thiêng").Ashoka là vị hoàng tử thứ hai của vua Bindusara và của Vương triều Maurya

Thời niên thiếu[sửa | sửa mã nguồn]

Cảnh "Quà của Đất", Thế kỷ thứ II Gandhara. Cậu bé Jaya, tiền thân kiếp trước của vua Ashoka, dâng chiếc bánh đất (mà cậu bé tưởng tượng như là thức ăn) lên Phật Thích-ca Mâu-ni. Nhờ công đức cúng dường cho một vị Phật với lòng chí thành, Phật Thích-ca Mâu-ni đã tiên tri rằng trong kiếp sau, cậu sẽ thành vị vua thống lĩnh Ấn Độ và lưu truyền Phật giáo. Bảo tàng Guimet.

Theo như truyền thống Phật giáo, miêu tả trong "Truyền thuyết về A-dục vương" vào thế kỷ thứ II, sự ra đời của A-dục được tiên tri bởi Phật Thích-ca Mâu-ni, trong câu chuyện "Quà của Đất":

Một trăm năm sau khi ta qua đời có một hoàng đế tên là A-dục tại xứ Pataliputra. Ông sẽ thống trị một trong bốn lục địa và trang trí Diêm phù đề (Jambudvīpa) với tro xương của ta và xây tám mươi bốn ngàn phù đồ để đem lại công đức cho chúng sinh. Ông sẽ cho các nơi đó được kính trọng bởi thần linh cũng như con người. Tiếng tăm của ông sẽ lan đi khắp nơi. Món quà cúng dường của ông chỉ đơn giản thế này: Nhạ Da (Jaya)[5] ném một nắm đất vào chén của Như Lai (Tathāgata). Ashokavadana [6]

Theo sau lời tiên tri này, "Truyền thuyết về A-dục vương" còn nói thêm rằng A-dục cuối cùng được hạ sinh như là hoàng tử của Hoàng đế Bindusara xứ Maurya bởi một thứ phi tên là Dharma. Dharma được kể là con của một Brahmin (Bà la môn) nghèo. Ông dâng con gái vào cung vua vì có lời tiên đoán rằng con trai (của Dharma) sẽ là một hoàng đế vĩ đại. Mặc dù Dharma có dòng dõi tăng lữ, sự kiện cô không phải là hoàng tộc đã làm cô có một vị trí thấp trong cung cấm.[7]

A-dục có một số người anh cùng cha khác mẹ lớn tuổi hơn và một người em trai, Vitthashoka, con trai thứ của Dharma. Các hoàng tử cạnh tranh lẫn nhau hết sức gay gắt, nhưng A-dục trẻ tuổi xuất sắc cả trong quân sự lẫn các môn học được dạy dỗ. Có một sự đối đầu gay gắt, đặc biệt là giữa A-dục và người anh Susima.

Thời kì nắm quyền lực[sửa | sửa mã nguồn]

Trưởng thành như một vị tướng bất khả chiến bại và một người cầm quân khôn ngoan, A-dục tiếp tục chỉ huy một vài quân đoàn của quân đội Maurya. Uy tín anh trong vương quốc tăng dần khiến các người anh lớn lo sợ anh sẽ được phụ hoàng Bindusara chọn làm người kế vị. Người lớn tuổi nhất, Hoàng tử Susima, theo truyền thống sẽ là người nối ngôi, thuyết phục phụ hoàng gửi A-dục dẹp quân nổi loạn ở thành phố Takshashila trong một tỉnh phía tây bắc của Sindh, mà Hoàng tử Susima là thống đốc. Takshashila là một nơi bất ổn bởi dân số Ấn-Hy Lạp hiếu chiến và sự điều hành kém cỏi của bản thân Susima. Điều này đã tạo nên sự thành lập của các sứ quân khác nhau tạo ra nổi loạn. Ashoka tuân lệnh và lên đường đền vùng có biến. Khi tin tức về A-dục đem quân tiến đánh lan đến, anh được chào đón bởi các sứ quân và cuộc nổi loạn kết thúc mà không cần một trận đánh nào. (Tỉnh này nổi loạn một lần nữa dưới triều A-dục vương, nhưng lần này cuộc nổi dậy bị dập tắt với một bàn tay sắt).

Sự thành công của A-dục làm các người anh cùng cha khác mẹ thêm lo lắng là anh muốn lên ngôi, và nhiều lời sàm tấu từ Susima khiến Bindusara gửi A-dục đi đày. Anh đi vào vùng Kalinga và mai danh ẩn tích. Nơi đó anh gặp một cô gái đánh cá tên là Kaurwaki, họ yêu nhau; các bản khắc đá tìm ra gần đây cho thấy cô ta trở thành hoàng hậu thứ hai hay thứ ba của anh.

Sanchi stupa ở Sanchi, Madhya Pradesh được xây bởi hoàng đế A-dục vào thế kỷ thứ III TCN

Trong khi đó, lại có một cuộc nổi loạn ở vùng Ujjain. Hoàng đế Bindusara triệu tập A-dục về sau hai năm đi đày. A-dục tiến về Ujjain và bị thương trong trận chiến sau đó, nhưng các tướng của anh đã dập tắt cuộc nổi loạn. A-dục được chữa trị ở một nơi bí mật để các tay chân của Susima không thể làm hại. Anh được chữa trị bởi các nhà sư Phật giáo. Chính nơi này là nơi anh lần đầu tiên biết được những lời dạy của Phật Thích-ca Mâu-ni, và cũng là nơi anh gặp nàng Devi xinh đẹp, là y tá riêng là cũng là con gái của một thương gia từ vùng Vidisha lân cận. Sau khi bình phục, anh cưới cô ta. A-dục, vào thời điểm đó, đã lập gia đình với Asandhimitra người là vương phi chính của ông trong nhiều năm cho đến khi bà mất. Bà có vẻ như là đã sống ở Pataliputra cả cuộc đời.

Năm sau trôi qua một cách bình yên và Devi chuẩn bị hạ sinh đứa con đầu lòng của ông. Vào thời gian đó, Hoàng đế Bindusara lâm bệnh và hấp hối. Một nhóm các đại thần dẫn đầu bởi Radhagupta, người chán ghét Susima, đã mời A-dục về để nối ngôi, mặc dù Bindusara ưa thích Susima hơn. Theo như truyền thuyết, trong một cơn giận Hoàng tử A-dục tấn công Pataliputra (Patna ngày nay), và giết chết tất cả các người anh cùng cha khác mẹ, kể cả Susima, và ném xác của họ vào một cái giếng ở Pataliputra. Không biết là vua cha Bindusara đã qua đời hay chưa vào lúc đó. Vào giai đoạn đó của cuộc đời ông, nhiều người gọi ông là Chanda Ashoka nghĩa là kẻ giết người bất nhân Ashoka. Truyền thuyết Phật giáo đã vẽ lên một bức tranh đẫm máu bạo lực về các hành động của ông vào thời gian đó. Đa số là không đáng tin cậy, và nên được đọc như là các yếu tố làm nền để làm nổi bật lên sự chuyển hóa trong A-dục vương mà Phật giáo đem lại sau này.

Sau khi lên ngôi, Ashoka mở rộng đế chế trong tám năm sau đó: đất nước mở rộng để bao gồm một vùng trải từ biện giới ngày nay của Bangladesh và bang Assam của Ấn Độ, ở phía đông, đến các vùng đất ngày nay là Iran và Afghanistan, ở phía tây, và từ Nút thắt Pamir ở phía bắc đến tận mũi của bán đảo của vùng phía nam Ấn Độ. Vào thời điểm đó của cuộc đời ông, ông được gọi là Chakravarti mà theo nghĩa đen là "Chuyển luân vương" (nghĩa rộng là hoàng đế). Vào khoảng thời gian đó, hoàng hậu Phật giáo Devi đã hạ sinh hai người con, Hoàng tử Mahindra và Công chúa Sanghamitra.

Chinh phục Kalinga[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Chiến tranh Kalinga

Phần đầu của triều đại của vua A-dục rõ ràng là khá đẫm máu. A-dục liên tục tổ chức các chiến dịch, chinh phạt hết vùng đất này đến vùng đất khác và mở rộng đáng kể đế chế Maurya đã khá rộng lớn và tích trữ thêm của cải. Cuộc chinh phạt cuối cùng là bang Kalinga nằm trên bờ biển phía đông Ấn Độ trong vùng ngày nay là Orissa. Kalinga tự hào với chủ quyền và nền dân chủ; với nền dân chủ kết hợp vua - nghị viện, khá là đặc biệt trong xứ Bharata cổ đại, vì nơi đó đã tồn tại khái niệm Rajdharma, nghĩa là nghĩa vụ của người cầm quyền, được đan xen đến mức như là bản chất của khái niệm về sự dũng cảm và Kshatriya dharma.

Nguyên nhân khởi đầu cuộc chiến tranh Kalinga (265 TCN hoặc 263 TCN) là không rõ ràng. Một trong những người anh của vua A-dục - và có lẽ là người ủng hộ Susima - có lẽ là bỏ chạy về phía Kalinga và chính thức lánh nạn ở nơi đó. Điều này đã làm A-dục nổi giận. Ông được khuyên bởi các quan đại thần nên tấn công Kalinga cho hành động phản bội đó. A-dục sau đó đã yêu cầu hoàng gia Kalinga đầu hàng. Khi họ coi thường tối hậu thư đó, A-dục gửi một trong các tướng lĩnh của mình đến Kalinga để buộc họ đầu hàng.

Tuy nhiên, vị tướng và các quân lính của ông ta đã bị đánh bật ra thông qua những chiến thuật tài tình của tổng tư lệnh xứ Kalinga. Vua A-dục, nổi đóa bởi sự thất bại này, đã tấn công với cuộc xâm lăng lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ đã ghi lại cho đến lúc đó. Kalinga đã chống cự mãnh liệt, nhưng họ không phải là đối thủ của quân lực hùng hậu của A-dục với các vũ khí mạnh hơn cùng các tướng sĩ nhiều kinh nghiệm hơn. Toàn bộ Kalinga bị cưỡng đoạt và tiêu diệt: các khuyến dụ của A-dục này nói rằng khoảng 100.000 người thiệt mạng phía Kalinga và 10.000 từ quân đội của A-dục; hàng ngàn người bị trục xuất.

Quy y Tam bảo[sửa | sửa mã nguồn]

Theo như truyền thuyết, một ngày sau khi cuộc chiến kết thúc vua A-dục cưỡi ngựa dạo quanh phía đông thành phố và tất cả những gì mà ông có thể thấy là những căn nhà cháy rụi và những xác người rải rác khắp nơi. Cảnh tượng này làm ông cảm thấy khó ở và ông thốt lên câu nói nổi tiếng, "Ta đã làm gì thế này? ". Sự tàn bạo của cuộc chinh phạt đã làm ông chuyển hóa sang Phật giáo và sử dụng vị trí của mình để truyền bá triết lý tương đối mới này lên đỉnh cao, đến mức như là La Mã cổ đại và Ai Cập.

Cũng theo truyền thuyết, cũng có một yếu tố khác đã dẫn dắt vua A-dục đến Phật giáo. Một công chúa Maurya - vợ của một trong những người anh trai của A-dục (đã bị ông xử tử) chạy trốn khỏi dinh thự với một tỳ nữ, lo sợ cho đứa con chưa ra đời. Trải qua một hành trình dài, công chúa đang mang thai ngã gục dưới một gốc cây trong rừng, và người tỳ nữ chạy đến ngôi đền gần đó để nhờ một thầy tu hay thầy thuốc đến giúp. Trong khi đó, dưới gốc cây, công chúa hạ sinh một người con trai. Hoàng tử trẻ tuổi được nuôi nấng và dạy dỗ bởi những Brahmin trong ngôi đền. Sau này, khi cậu khoảng mười ba tuổi, cậu tình cờ gặp A-dục, ông ngạc nhiên khi thấy một cậu bé nhỏ tuổi như vậy ăn mặc như một nhà hiền triết. Khi cậu bé bình thản tiết lộ thân thế của mình, có vẻ như là A-dục xúc động vì hối hận và lòng thương cảm, và cho dời cậu bé và mẹ cậu về lại hoàng cung.

Trong khi đó Hoàng phi Kavi, một người theo Phật giáo, và nuôi dạy các con theo tín ngưỡng đó, và rõ ràng là đã rời bỏ A-dục sau khi bà chứng kiến những việc tàn bạo xảy ra tại Kalinga. Vua A-dục đau khổ vì điều này, và được khuyên bởi người cháu của mình (người lớn lên trong đền thờ và mang tính thầy tu nhiều hơn là hoàng tử) quy thuận theo đạo pháp (dharma) và tránh xa chiến tranh. Hoàng tử Mahindra và công chúa Sanghamitra, con của Hoàng hậu Devi, chán ghét bạo lực và cảnh đổ máu, nhưng biết rằng chiến tranh trong hoàng gia sẽ là một phần của cuộc đời họ. Do đó họ xin phép A-dục gia nhập với các nhà sư Phật giáo, mà A-dục miễn cưỡng chấp nhận. Hai người này đã thiết lập Phật giáo ở Ceylon (bây giờ là Tích Lan).

Từ thời điểm đó vua A-dục, người đã từng được miêu tả như là "A-dục ác vương" (Chandashoka), bắt đầu được mô tả như là "A-dục sùng đạo" (Dharmashoka). Ông cho lan truyền trường phái Vibhajjvada của Phật giáo và thuyết pháp giáo lý trong vương quốc của mình cũng như ra khắp thế giới từ khoảng 250 TCN. A-dục vương do vậy được khẳng định là người có những cố gắng nghiêm túc đầu tiên để phát triển một chính sách Phật giáo.

Qua đời và di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Trụ đá Ashoka tại Sarnath

Vua Ashoka trị vì xấp xỉ trong bốn mươi năm, và sau khi ông qua đời, triều đại Maurya chỉ tồn tại thêm được năm mươi năm nữa. Ông có nhiều vợ và con, nhưng tên tuổi của phần lớn trong số họ đã bị quên lãng cùng năm tháng.

Mahindra (Ma-hi-đà) và Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) là 2 người con nổi tiếng nhất của ông, ngày nay vẫn còn được nhớ đến. Họ là cặp song sinh hạ sinh bởi người vợ thứ nhất của ông là Devi ở thành phố Ujjain. Ông đã cho họ xuất gia theo đạo Phật, và 2 người này đã góp công truyền đạo Phật đến khắp thế giới. Mahindra và Sanghamitra đã đi đến Sri Lanka và truyền đạo cho vua, hoàng hậu và người dân xứ đó theo đạo Phật. Mahindra có lẽ cũng là chủ tọa của Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại Sri Lanka.[8] Còn Tỳ-kheo-ni Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) thì đã mang theo 1 nhánh cây chiết từ Cội Bồ-đề (Phật Thích Ca đã ngồi dưới gốc cây bồ đề đó vào đêm ngài đạt tới giác ngộ) đem đến trồng ở Anuradhapura, sau này nhánh cây phát triển thành một cây to và người dân Sri Lanka gọi đây là "Cây Bồ Đề Vĩ Đại Cát Tường". Cho tới nay, trải qua gần 2.300 năm, Cây Bồ Đề Vĩ Đại vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka coi là quốc bảo. Rất nhiều nhánh từ cây này đã được chiết để gửi đi trồng ở chùa chiền khắp nơi trên thế giới. Ngày nay vào ngày rằm tháng 11 âm lịch, Phật tử khắp nơi trong đảo quốc Sri Lanka vẫn hành lễ tưởng niệm công lao của Ma-hi-đà và Tăng-già-mật-đa[9]

Trong những năm tháng tuổi già, ông có vẻ chịu sự thao túng của người vợ trẻ nhất tên là Tishyaraksha. Người ta kể rằng bà ta đã làm cho hoàng tử Kunala, quan nhiếp chính ở Takshashila, bị mù bởi những âm mưu xảo trá.

Kanula được tha tội tử hình và trở thành một người hát rong đi cùng với người vợ yêu của ông ta là Kanchanmala. Ở thành phố Pataliputra, vua Ashoka nghe lời hát của Kunala, và nhận ra rằng sự bất hạnh của Kunala có thể là sự trừng phạt của những tội lỗi trong quá khứ của nhà vua và kết tội chết Tishyaraksha, phục hồi Kunala về lại triều đình. Kunala được kế vị bởi con ông ta, Samprati. Nhưng triều đình của ông không kéo dài sau khi Ashoka qua đời.

Quốc huy của Ấn Độ là bản sao của cột đá Ashoka. Triều đại Maurya của vua Ashoka thể dễ dàng biến mất vào lịch sử với nhiều năm tháng trôi qua và có lẽ sẽ như vậy, nếu như ông đã không để lại chứng cứ về những thành công của ông. Những bằng chứng về vị vua khôn ngoan này đã được khám phá dưới dạng những cột đá được chạm khắc lộng lẫy và những tảng đá khắc những tranh vẽ và những lời răn dạy. Những gì Ashoka để lại là ngôn ngữ viết đầu tiên ở Ấn Độ kể từ thành phố cổ đại Harappa. Không hẳn là Sanskrit, ngôn ngữ dùng trong các bản khắc đá là dạng ngôn ngữ nói thời đó gọi là Prakrit.

Vào năm 185 TCN, khoảng năm mươi năm sau khi vua Ashoka qua đời, vị vua cuối cùng của Maurya, Brhadrata, bị giết hại một cách tàn bạo bởi tổng tư lệnh của quân đội Maurya, Pusyamitra Sunga, trong khi vua đang duyệt hàng quân danh dự. Pusyamitra Sunga thiết lập triều đại Sunga (185 TCN-78 TCN) và cai trị chỉ một phần của Đế chế Maurya. Đa phần lãnh thổ phía tây bắc của Đế chế Maurya (ngày nay là Iran, Afghanistan và Pakistan) trở thành Vương quốc Ấn-Hy Lạp (tiếng AnhIndo-Greek Kingdom).

Khi Ấn Độ giành lại được độc lập từ Đế quốc Anh nước này đã mô phỏng quốc huy của Ashoka thành quốc huy chính thức, đặt Dharmachakra (Bánh xe của các Nghĩa vụ Chính nghĩa) trên nhiều cột đá trên lá cờ của quốc gia vừa giành được độc lập.

Năm 1992, vua Ashoka được xếp thứ 53 trong Danh sách những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử của Michael H. Hart. Năm 2001, phim Ashoka - một bộ phim (có phần hư cấu) về cuộc đời của Ashoka được sản xuất.

Vương quốc Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Lịch sử Phật giáo

A-dục vương trong thời nay[sửa | sửa mã nguồn]

Trong nghệ thuật và điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Ashoka đại đế (phim truyền hình)

Trong Văn học[sửa | sửa mã nguồn]

  • Asoka and the Decline of the Maurya của Romila Thapar.
  • Early India and Pakistan: to Ashoka (1970) của Brigadier Sir Robert Eric Mortimer Wheeler.
  • Asoka the Great của Monisha Mukundan.
  • Asokan Sites and Artefacts, a Source-book with Bibliography. Harry FalkVerlag Philipp von Zabern, Mainz 2006 ISBN 978-3-8053-3712-0.
  • The Legend of King Asoka (1948) của John S. Strong.
  • Ashoka the Great (1995) của D. C. Ahir.
  • Ashoka text and glossary (1924) của Alfred C. Woolner.
  • Asoka: The Buddhist Emperor of India của Vincent A. Smith.
  • Discovery of the Exact Site of Asoka's Classic Capital of Pataliputra (1892) của L. A. Waddell.
  • Asoka Maurya (1966) của B. G. Gokhale.
  • The Legend of King Asoka (1989) của John S. Strong.
  • Asoka (1923) của D.R. Bhandarkar.
  • Ashoka, The Great của B. K. Chaturvedi.
  • Asoka của Mookerji Radhakumud.
  • King Aśoka and Buddhism Historical And Literaray Studies của Anuradha Seneviratna.
  • To Uphold the World: The Message of Ashoka and Kautilya for the 21st Century (2008) của Bruce Rich.
  • Asoka and His Inscriptions của Beni Madhab Barua.
  • Asoka's Edicts (1956) của A. C. Sen.

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

  • Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4
  • Thapar, Romila. Aśoka and the decline of the Mauryas (Delhi: Oxford: Oxford University Press, 1997, 1998 printing, c1961) ISBN 0-19-564445-X
  • Nilakanta Sastri, K. A. Age of the Nandas and Mauryas (Delhi: Motilal Banarsidass, [1967] c1952) ISBN 0-89684-167-7
  • Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division tháng 5 năm 1986) ISBN 0-86590-826-5
  • Govind Gokhale, Balkrishna. Asoka Maurya (Irvington Pub tháng 6 năm 1966) ISBN 0-8290-1735-6
  • Chand Chauhan, Gian. Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650 (Munshiram Manoharlal tháng 1 năm 2004) ISBN 81-215-1028-7
  • Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0
  • Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts - A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0
  • Ahir, D. C. (1995). Asoka the Great. Delhi: B. R. Publishing.
  • Bhandarkar, D.R. (1969). Aśoka (ấn bản 4). Calcutta: Calcutta University Press.
  • Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division May 1986) ISBN 0-86590-826-5
  • Chauhan, Gian Chand (2004). Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650. Munshiram Manoharlal, Delhi. ISBN 978-81-215-1028-8
  • Durant, Will (1935). Our Oriental Heritage. New York: Simon and Schuster.
  • Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts – A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0
  • Gokhale, Balkrishna Govind (1996). Asoka Maurya (Twayne Publishers) ISBN 978-0-8290-1735-9
  • Hultzsch, Eugene (1914). The Date of Asoka, The Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland (Oct. 1914), pp. 943–951. Article stable URL.
  • Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition ngày 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0
  • Mookerji, Radhakumud (1962). Aśoka (ấn bản 3). Delhi: Motilal Banarsidas.
  • Nikam, N. A.; McKeon, Richard (1959). The Edicts of Aśoka. Chicago: University of Chicago Press.
  • Sastri, K. A. Nilakanta (1967). Age of the Nandas and Mauryas. Reprint: 1996, Motilal Banarsidass, Delhi. ISBN 978-81-208-0466-1
  • Singh, Upinder (2012). "Governing the State and the Self: Political Philosophy and Practice in the Edicts of Aśoka," South Asian Studies, 28:2 (University of Delhi: 2012), pp. 131–145. Article stable URL.
  • Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4
  • Thapar, Romila. (1973). Aśoka and the decline of the Mauryas. 2nd Edition. Oxford University Press, Reprint, 1980. SBN 19-660379 6.
  • von Hinüber, Oskar. (2010). "Did Hellenistic Kings Send Letters to Aśoka?" Journal of the American Oriental Society, 130:2 (Freiburg: 2010), pp. 261–266.
  • MacPhail, James Merry: "Asoka", Calcutta: The Associative Press; Luân Đôn: Oxford University Press 1918 PDF (5.9 MB)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • A-dục vương kinh (zh. 阿育王經, Taishō No. 2043)
  • A-dục vương truyện (zh. 阿育王傳, Taishō No. 2042)
  • The Biographical Scripture of King Aśoka, transl. Li Rongxi. Berkeley: Numata Buddhist Research Center, 1993.
  • Ahir, D. C. (1995). Asoka the Great. Delhi: B. R. Publishing.
  • Bhandarkar, D.R. (1969). Aśoka (ấn bản 4). Calcutta: Calcutta University Press.
  • Bongard-Levin, G. M. Mauryan India (Stosius Inc/Advent Books Division May 1986) ISBN 0-86590-826-5
  • Chauhan, Gian Chand (2004). Origin and Growth of Feudalism in Early India: From the Mauryas to AD 650. Munshiram Manoharlal, Delhi. ISBN 978-81-215-1028-8
  • Durant, Will (1935). Our Oriental Heritage. New York: Simon and Schuster.
  • Falk, Harry. Asokan Sites and Artefacts – A Source-book with Bibliography (Mainz: Philipp von Zabern, [2006]) ISBN 978-3-8053-3712-0
  • Gokhale, Balkrishna Govind (1996). Asoka Maurya (Twayne Publishers) ISBN 978-0-8290-1735-9
  • Hultzsch, Eugene (1914). The Date of Asoka, The Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland (Oct. 1914), pp. 943–951. Article stable URL.
  • Keay, John. India: A History (Grove Press; 1 Grove Pr edition ngày 10 tháng 5 năm 2001) ISBN 0-8021-3797-0
  • Mookerji, Radhakumud (1962). Aśoka (ấn bản 3). Delhi: Motilal Banarsidas.
  • Nikam, N. A.; McKeon, Richard (1959). The Edicts of Aśoka. Chicago: University of Chicago Press.
  • Sastri, K. A. Nilakanta (1967). Age of the Nandas and Mauryas. Reprint: 1996, Motilal Banarsidass, Delhi. ISBN 978-81-208-0466-1
  • Singh, Upinder (2012). "Governing the State and the Self: Political Philosophy and Practice in the Edicts of Aśoka," South Asian Studies, 28:2 (University of Delhi: 2012), pp. 131–145. Article stable URL.
  • Swearer, Donald. Buddhism and Society in Southeast Asia (Chambersburg, Pennsylvania: Anima Books, 1981) ISBN 0-89012-023-4
  • Thapar, Romila. (1973). Aśoka and the decline of the Mauryas. 2nd Edition. Oxford University Press, Reprint, 1980. SBN 19-660379 6.
  • von Hinüber, Oskar. (2010). "Did Hellenistic Kings Send Letters to Aśoka?" Journal of the American Oriental Society, 130:2 (Freiburg: 2010), pp. 261–266.
  • MacPhail, James Merry: "Asoka", Calcutta: The Associative Press; Luân Đôn: Oxford University Press 1918 PDF (5.9 MB)

Chú giải[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Thapur (1973), p. 51.
  2. a b Jerry Bentley, Old World Encounters: Cross-Cultural Contacts and Exchanges in Pre-Modern Times (New York: Oxford University Press, 1993), 44.
  3. ^ Jerry Bentley, Old World Encounters: Cross-Cultural Contacts and Exchanges in Pre-Modern Times (New York: Oxford University Press, 1993), 45.
  4. ^ Jerry Bentley, Old World Encounters: Cross-Cultural Contacts and Exchanges in Pre-Modern Times (New York: Oxford University Press, 1993), 46. "Ashoka regarded Buddhism as a doctrine that could serve as a cultural foundation for political unity."
  5. ^ Thiên nữ trong Văn Thù viện
  6. ^ The Gift of Dust
  7. ^ “The unknown Ashoka”Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2006.
  8. ^ Bhikkhu Suvijjo (2011), "Đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư", Tạp chí Phật giáo Nguyên thủy, số 05 (tháng 2/2011), trang 42-43.
  9. ^ Trưởng lão ni Sanghamitta, Vị ni trưởng đầu tiên tại Sri Lanka Lưu trữ 2010-06-20 tại Wayback MachineDr. Lorna Dewaraja -Bình Anson trích dịch

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wikisource có văn bản gốc từ các bài viết của 1911 Encyclopædia Britannica Asoka.
  • Ashoka trên DMOZ
  •  Phương tiện liên quan tới Ashoka tại Wikimedia Commons
Bảng các chữ viết tắt
.

Vài sử liệu và truyền thuyết về vua Asoka (A-dục)

POSTED ON  BY ANH NGUYỄN

I. Dòng dõi

Asoka thuộc thế hệ thứ ba vương triều Maurya do ông nội ông, Chandragupta, sáng lập. Theo các sử gia, sự xuất hiện của Chandragupta thế kỷ thứ IV trước Tây lịch đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử chính trị Ấn Độ cổ đại. R.C. Mazumdar cho rằng “Sự nghiệp của Chandragupta, người sáng lập triều đại Maurya, tỏa sáng trong lịch sử Ấn Độ cổ đại, vì nó giải phóng đất nước này khỏi ách thống trị của người Macedonia và xây dựng sự thống nhất chính trị đầu tiên của Ấn Độ dưới quyền một vị vua. Đây là một thành công đáng kể, đặc biệt khi chúng ta biết rằng Chandragupta không phải là người thừa kế ngai vàng mà được sinh ra trong một hoàn cảnh khiêm tốn. Sự thăng tiến địa vị tối cao của Chandragupta đích thực là một thiên anh hùng ca trong lịch sử”.

Vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, Moriya là dòng vương tộc trị vì tiểu quốc cộng hòa Pipphalivana. Theo H. C. Raychaudhuri, dưới triều vua Agrammes, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại Nanda, dân chúng tỏ ra bất mãn với triều đình và những người Moriya nhờ tài lãnh đạo của Chandragupta trở nên hùng mạnh vượt bực. Với sự trợ giúp của Kautilya, con trai một Bà-la-môn xứ Taxilà, Chandragupta tiến hành lật đổ vương triều Nanda đã đến hồi lụn bại.

Chandragupta lên ngôi trị vì Ấn Độ từ năm 324 đến năm 300 trước Tây lịch thì nhường ngôi cho con trai Bindusàra và xuất gia trở thành một tu sĩ Kỳ-na giáo. Truyền thống Kỳ-na giáo nói đến ông như một ẩn sĩ và các bia ký khắc vào đầu thế kỷ thứ X được phát hiện gần Seringapatam đề cập tên một đỉnh núi gọi là Chandragiri, tương truyền là chỗ ẩn cư tu hành của Chandragupta. Trong khoảng thời gian 24 năm trị vì, Chandragupta đã mở rộng lãnh thổ của mình, phía Nam đến tận Mysore và phía Tây-bắc tới các biên giới Persia. Các lãnh địa như Punjab, Sind, Beluchistan, Afghanistan, Himavatkùta, Nepal và Kashmir đều thuộc quyền cai trị của ông. Bindusàra tiếp nối cha mình cai quản vương triều Maurya từ 300 đến 273 trước Công nguyên.

II. Sự ra đời và thời gian trước khi lên ngôi

Asoka ra đời vào năm 304 trước Tây lịch. Theo Dìpavamsa (Đảo sử) và Mahàvamsa (Đại sử), Bindusàra là người chồng của 16 bà vợ và là cha của 101 con trai; trong đó chỉ ba người được biết tên là Sumana (hay Susìma gọi theo Bắc truyền), con trai cả, Asoka, con trai thứ ba, và người con trai út có tên là Tisya. Tác phẩm Asokàvadàna (Chuyện kể về
Vài sử liệu và truyền thuyết về vua Asoka (A-dục) THUẦN KHIẾT
vua A-dục) nói đến Subhadràngì (hay Dhammà, gọi theo Nam truyền), con gái một gia đình Bà-la-môn xứ Campà, là người đã sinh Asoka. Bà này, sau khi sinh Asoka, đã nói: “Nay ta không còn sầu muộn (Asoka)”. Đứa trẻ mang tên Asoka từ đó. Một bản sớ giải cuốn Mahàvamsa có đề cập đến Subhadràngì, nói rằng con trai bà mang tên Asoka bởi đứa bé này đã không làm cho bà đau đớn chút nào khi ra đời. Đứa trẻ có làn da xù xì và do vậy Bindusàra không yêu mến nó. Có một câu chuyện kể rằng mẹ đứa trẻ từng cố tránh cho con trai bà khỏi gặp cha nó nhằm bảo vệ tính mạng của đứa trẻ.

Xét theo các truyền thuyết nói trên thì có lẽ thuở ấu thời Asoka đã không được may mắn cho lắm bởi làn da dị tật bẩm sinh. Tuy vậy đến khi trưởng thành Asoka hoàn toàn chiếm trọn niềm tin của Bindusàra bởi tài thao lược quân sự của mình. Điều này có thể được thấy rõ qua việc ông được Bindusàra phái tới Takkasilà hay Taxilà nhằm dập tắt những cuộc nổi loạn ở đây. Theo Divyàvadàna (Tuyển tập các truyền thuyết Phật giáo sơ kỳ), trong thời gian Asoka được cử làm Phó vương tại vùng lãnh thổ Tây Ấn gọi là Avantirattham hay Avantì với Ujjain là thủ phủ, bạo loạn đã xảy ra ở Taxilà mà hoàng tử Sumana, anh trai ông, không thể giải quyết, vì vậy ông được phái tới Taxilà thay hoàng tử Sumana dập tắt cuộc nổi loạn. Tất cả các tài liệu đều không đề cập chế độ học vấn của Asoka. Bản sớ giải Theragàthà (Trưởng lão Tăng kệ) có nói đến trường hợp Vitàsoka, em trai Asoka, rất giỏi kiến thức (vidyà) cùng các bộ môn khoa học và nghệ thuật khác mà các hoàng tử Sát-đế-lỵ (ksatriya-kumàra) đương thời phải học tập và nắm bắt. Ta có thể nói rằng Asoka cũng thừa hưởng chế độ giáo dục như các anh em trai mình, bởi ngoài tài thao lược quân sự, Asoka còn tỏ ra rất xuất chúng trong vai trò trị vì, tài ngoại giao, công tác quản trị, ban hành các điều luật, đặc biệt là chính sách đức trị (Dharma-vijiya) mà ông đã đề ra “vì hạnh phúc và an lạc cho tất cả mọi người cả đời này và đời sau”, như các bia ký của ông đã nói rõ.

Ta cũng không biết đích xác các cuộc hôn nhân của Asoka đã diễn ra như thế nào. Các truyền thuyết và bia ký chỉ thông báo cho chúng ta Asoka là người lắm vợ (polygamist). Các tài liệu Tích Lan ghi nhận người vợ đầu tiên của ông là bà Devì hay Vedisa-Mahàdevì, con gái một gia đình thương gia giàu có vùng Vedisa. Asoka cưới bà này khi đang làm Phó vương xứ Ujjain. Cuộc hôn nhân đầu tiên này đã cho ra đời hai người con, Mahendra và Sanghamitrà, mà về sau trở thành những người mở đường cho sự xuất hiện của Phật giáo và giáo hội ở Tích Lan (Sri Lanka). Mahendra là trưởng phái đoàn truyền giáo có công truyền bá Phật giáo vào Tích Lan, trong khi Sanghamitrà mở đường cho sự ra đời của giáo hội Tỷkheo Ni (Bhikkhunìsangha) tại đây. Mặc dù là người vợ đầu tiên nhưng bà Devì không theo Asoka về kinh đô Pàtaliputra mà vẫn ở lại quê hương Ujjain của mình, thậm chí cả sau ngày Asoka lên nắm vương quyền Maurya. Tương truyền bà Devì đã cho xây dựng một ngôi tinh xá lớn (Mahàvihàra) tại vùng núi Vedisa (Vedisagiri). Tác phẩm Samantapàsàdikà (Chú giải Luật Thiện kiến) thuật sự kiện rằng sau khi nhận trách nhiệm giới thiệu Phật giáo sang Tích
Lan, Mahinda đã khởi hành từ Pàtaliputra đến Ujjain thăm mẹ mình và ở lại tại Mahàvihàra một thời gian rồi từ đó đi tiếp sang Tích Lan. Địa danh Ujjain có bảo tháp Sànchì rất nổi tiếng, lưu lại nhiều truyện tích nói về lòng mến mộ Phật pháp của Asoka, rất có thể được khởi dựng từ thời Asoka hoặc sau đó không lâu để đánh dấu tấm lòng mộ đạo của ông đồng thời cũng là kỷ niệm mối tình đầu của ông với bà Devì xứ Vedisa.

Người vợ thứ hai của Asoka được ghi nhận là bà Kàruvàkì, sinh hạ hoàng tử Tìvara. Tác phẩm Divyàvadàna (Tuyển tập các truyền thuyết Phật giáo sơ kỳ) nói đến bà Padmàvatì, mẹ của hoàng tử Dharmavivardhana hay còn gọi là Kunàla, như là người vợ thứ ba của Asoka. Bà Asandhimitrà được xem là người thứ tư trong số các bà vợ của Asoka. Cả Mahàvamsa lẫn Divyàvadàna đều thống nhất bà Tissarakkhà hay Tisyaraksità là người vợ cuối cùng của Asoka. Biên niên sử Kashmir có nói đến một hoàng tử tên Jalauka, con trai Asoka, nhưng không cho biết tên người mẹ. Về phía con gái, ngoài Sanghamitrà, con bà Vedisa-Mahàdevì, Asoka cũng được xem là cha của công chúa Càrumatì, người được gả sang xứ Nepal. Truyền thống Nepal đề cập Càrumatì là con gái Asoka, từng theo vua cha chiêm bái thánh tích Lumbinì, về sau kết hôn với hoàng tử Devapàla xứ Nepal. Tương truyền bà và chồng bà đã lập nên thành phố Deopatan hay Devapatana gần Pasupati và xây dựng một ngôi chùa ở phía Bắc thành phố này. Các tài liệu Nam truyền và Bắc truyền không thống nhất với nhau về mối quan hệ giữa Asoka và Mahendra. Theo các tài liệu Nam truyền lưu giữ trong các tác phẩm Dìpavamsa và Mahàvamsa thì Mahendra (hay Mahinda) là con trai Asoka, nhưng theo các tài liệu Bắc truyền ghi trong tác phẩm Asokàvadàna và Divyàvadàna thì Mahendra không phải con trai mà là em trai Asoka.

III. Các truyền thuyết xoay quanh việc đăng quang của Asoka Asoka

thừa kế ngai vàng Maurya vào năm 273 trước Tây lịch nhưng chính thức đăng quang ba hay bốn năm sau đó, nghĩa là 270 hay 269 trước Tây lịch. Các truyền thuyết, truyền thống, sử liệu và các sử gia nêu nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc lên ngôi của Asoka. Điều này cũng dễ hiểu bởi thứ nhất, xét theo truyền thuyết Tích Lan thì Bindusàra có rất nhiều con, việc chọn Asoka lên nắm vương vị lẽ tất nhiên đã khiến nảy sinh không ít bất mãn trong số các con cái và đám quần thần luôn tiếp tay cho các ông hoàng bà chúa. Thứ hai, tám năm sau khi lên ngôi, tức 262 trước Tây lịch, Asoka từ một con người khét tiếng tàn bạo (Candàsoka) chuyển hẳn sang một con người đầy nhân từ (Dhammàsoka), sự kiện này hẳn đã tạo ra không ít các truyền thuyết và huyền thoại về một ông vua đầy quyền lực nhưng giàu lòng nhân ái như Asoka.

Theo các thông tin ghi chép trong các tác phẩm Dìpavamsa và Mahàvamsa thì việc lên ngôi của Asoka gắn liền với những cuộc chiến tương tàn xảy ra giữa các anh
9 15 – 7 – 2020 VÙN HOÁA PHÊÅT GIAÁO
em ông. Mahàvamsa mô tả Asoka là kẻ giết hại 99 anh em trai mình, trừ Tisya, người em cùng mẹ, vì mục đích chiếm đoạt ngai vàng. Bởi sự kiện này Asoka có tên gọi là Candàsoka. Tuy nhiên, theo Divyàvadàna thì sự tranh giành vương vị chỉ xảy ra giữa Asoka và Sumana, anh trai ông, trong đó Sumana bị sát hại. Tàrànath, sử gia người Tây Tạng, cho rằng Asoka chỉ sát hại sáu anh em trai. Theo các tài liệu Tích Lan thì trong thời gian làm Phó vương tại Ujjain hay Avantì, Asoka hay tin Bindusàra lâm bịnh nặng, ông liền tức tốc quay trở về kinh đô Pàtaliputra, giết chết tất cả các anh em trai mình, trừ Tisya, để chiếm đoạt ngai vàng. Nhưng theo Divyàvadàna thì lúc Bindusàra lâm chung, ngai vàng Pàtaliputra bị bỏ trống, bấy giờ Asoka tiến hành chiếm đoạt vương vị. Trong cuộc chiến chống lại anh trai mình, Asoka được tể tướng Khallàtaka và 500 triều thần hậu thuẫn. Tác phẩm Mahà-bodhivamsa (Sử thi Đại giác ngộ) thuật rằng trong cuộc chiến giành ngôi vị, Asoka đứng riêng một trận tuyến chống lại Sumana, người thừa kế hợp pháp ngai vàng xứ Magadha và được tất cả anh em ông ủng hộ. Trong trận chiến này tất cả 99 anh em trai ông đều bị giết.

Như vậy, cứ theo các tài liệu Tích Lan thì Asoka giết hại tất cả 99 người anh em cùng cha khác mẹ với mình trước khi lên nắm vương quyền Maurya. V. A. Smith không đồng tình với các truyền thuyết Tích Lan cho rằng Asoka giết chết tất cả anh em trai mình, trừ Tisya. Theo Smith, chắc chắn các anh chị em ông vẫn còn sống mười bảy hoặc mươi tám năm sau khi Asoka lên ngôi. D.R. Bhandarkar cũng thấy rõ sự mâu thuẫn giữa tài liệu Tích Lan nói rằng Asoka giết chết 99 anh em trai và thông tin các bia ký Asoka cho hay không chỉ một mà nhiều anh em trai của Asoka vẫn còn sống không những ở kinh đô Pàtaliputra mà còn ở các thành phố khác của đế quốc ông. R. Mookerji xem ra cũng không mấy đồng tình với các tài liệu Tích Lan khi nói rằng “một con người có lòng mong ước cho tất cả anh em và bà con mình được hạnh phúc an lạc đầy cảm động như vậy không thể là một con người tàn bạo, như các truyền thuyết đã gán cho ông”. Sau khi đưa ra nhiều cứ liệu khác nhau về Asoka, đến lượt K. Hazra đi đến nhận xét rằng các tác giả Phật giáo chính thống muốn dệt nên một bức tranh tuyệt đẹp về Phật giáo, những giáo lý cao cả và tính chất vĩ đại của nó, đã nói đến Asoka như một kẻ tàn bạo (Candàsoka) và rồi muốn giới thiệu với chúng ta rằng chính nhờ ảnh hưởng to lớn của Phật giáo mà con người khét tiếng tàn bạo này đã trở thành một con người cao cả, một con người đầy từ tâm và thánh thiện nhất.

Quả thực chúng ta khó biết đích xác việc Asoka lên ngôi thế nào và các tác giả Tích Lan có dụng ý tô hồng câu chuyện hay không, như K. Hazra đã nhận xét. Có điều lạ là các tài liệu Tích Lan bảo Bindusàra có tất cả 101 người con, mà toàn là con trai. Điều này hoàn toàn trái với quan điểm của Asoka khi ông nói về các anh em trai, các chị em gái và các bà con ông, như được ghi trong các bia ký. Như vậy phải chăng Bindusàra chỉ có toàn con trai hay ngoài
101 con trai ra Bindusàra còn có những người con gái khác mà các tài liệu Tích Lan không nói đến? Lại nữa, trong số 101 con trai của Bindusàra chỉ có ba người được biết tên là Sumana, Asoka và Tisya. Theo các tài liệu Mahàvamsa, Divyàvadàna và Asokàvadàna thì tên tuổi Sumana, Asoka và Tisya gắn liền với việc chiếm đoạt ngai vàng của Asoka, những người con khác của Bindusàra chỉ là con số được nêu ra. Sumana bị sát hại trong lúc tranh chấp vương vị, Asoka lên nắm ngai vàng, còn Tisya được sống sót và về sau được Asoka bổ làm phó vương (uparàja). Như vậy con số 101 con trai do tài liệu Tích Lan cung cấp là đúng hay thực sự Bindusàra chỉ có ba người con như được kể tên trong các tài liệu Nam và Bắc truyền? Từ những điều vừa nêu ta khó tin các truyền thuyết Tích Lan là hoàn toàn xác thực. Bởi vậy, nhận xét của K. Hazra về các tác giả Tích Lan muốn thổi phồng câu chuyện Asoka không phải không có cơ sở. Hazra khiến chúng ta nhớ tới câu chuyện Angulimàla sát hại 999 mạng sống trước khi được Đức Thế Tôn nhiếp hóa, như được ghi lại trong tập Theragàthà và các sớ giải.

Chúng ta có hai tài liệu kinh tạng nói về Angulimàla, một được chép trong Majjhima Nikàya và một được ghi trong tập Theragàthà thuộc Khuddaka Nikàya. Chúng ta không có gì phải nói về tài liệu thứ nhất được đề cập trong bài kinh số 86, Majjhima Nikàya (kinh Trung bộ Nam truyền) , ngoài việc thán phục sức cảm hóa của Đức Phật đối với tên cướp hung bạo Angulimàla và việc Angulimàla từ một tên cướp khét tiếng hung tàn chuyển thành một tu sĩ đầy từ tâm và kham nhẫn. Tuy nhiên ta không thể không giật mình khi đọc sang tài liệu thứ hai được lưu giữ trong Theragàthà, ở đấy Angulimàla hiện rõ là tên cướp tàn ác. Con số 999 mạng sống bị Angulimàla tước đoạt được ghi nhận bởi các sớ giải Majjhima Nikàya và Theragàthà khiến chúng ta có cảm giác rằng các nhà sớ giải kinh tạng Pàli đã đẩy câu chuyện đi quá xa thực tế.

Các quan điểm bênh vực cho việc lên ngôi của Asoka bao gồm các truyền thuyết, những lời tiên tri cũng như lập trường ủng hộ Asoka của các triều thần đương thời, như được thấy phần lớn trong tác phẩm Divyàvadàna. Trong tác phẩm Du Thiên Trúc sự, Pháp Hiển (Fa-hsien) ghi lại câu chuyện tiền thân của Asoka, kể rằng trong đời quá khứ, khi còn là một cậu bé con đang nghịch cát trên đường, Asoka đã gặp Đức Phật Ca-diếp (Kasyapa) đang đi khất thực. Cậu bé hoan hỷ nhặt một nắm đầy đất cúng dường cho ngài. Đức Phật tiếp nhận nắm đất cúng dường của cậu bé. Do nhân duyên này, cậu bé được phước báo trở thành một vị vua Chuyển luân vương trị vì cõi Diêmphù-đề (Jambudvìpa). Trong hồi ký của mình, Nghĩa Tịnh (I-sting) có nói đến trường hợp Đức Phật báo trước sự xuất hiện của Asoka và vương quốc to lớn của ông. Theo Nghĩa Tịnh, trong khi giải thích giấc mộng của vua Bimbisàra về mẩu vải và chiếc gậy vàng biến thành 18 mảnh, Đức Phật dạy giáo lý của Ngài sẽ được chia làm 18 trường phái sau hơn 100 năm Ngài nhập Niết-bàn và bấy giờ sẽ xuất hiện một vị vua tên Asoka, trị vì toàn cõi Diêm-phù-đề. Trong thời gian Bindusàra còn tại vị, vị thầy của ông, một tu sĩ phái Àjìvika, đã tiên đoán Asoka sẽ là người thừa kế ngai vàng Maurya. Divyàvadàna thuật rằng Đức Phật đã đoán trước Asoka là một vị vua chân chánh sẽ xây dựng 84.000 bảo tháp để tôn thờ xá-lợi của Ngài. Tác phẩm này còn nói thêm rằng Asoka là một vị vua sẽ trị vị một vương quốc rộng lớn bằng Chánh pháp, về sau (nhà vua) sẽ từ bỏ vương quốc, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình và sẽ thành một vị Phật Độc giác (Pratyeka-Buddha). 

Các truyền thuyết và lời tiên tri chỉ nói Asoka sẽ làm vua và là vị vua xứng đáng nhưng không nói Asoka sẽ lên ngôi vua bằng cách nào. V.A. Smith dẫn cứ liệu từ các bia ký Asoka và cho rằng Asoka lên ngôi một cách êm thấm, phù hợp với nguyện vọng của tổ tiên. Tuy nhiên, theo K. Hazra, việc đăng quang của Asoka đã diễn ra không mấy êm ái bởi nó được tiến hành bốn năm sau khi Bindusàra qua đời, nghĩa là một khoảng thời gian khá dài đủ để làm mờ phai những tranh luận liên quan đến quyền nắm ngai vàng Pàtaliputra. Theo Divyàvadàna thì trước khi lâm chung, Bindusàra bảo anh trai Asoka là Sumana nhận trách nhiệm trông coi vương quốc và vì vậy đã sai các triều thần sắp đặt buổi lễ đăng quang, nhưng các triều thần không nghe và giục Asoka chiếm đoạt ngai vàng. Asoka chấp nhận lời đề nghị này. Cũng theo Divyàvadàna, khi được tin một cuộc nổi loạn khác xảy ra ở Taxilà, Bindusàra muốn cử Asoka đến Taxilà dẹp loạn bởi ông đã từng dẹp loạn thành công ở đấy một lần, nhưng các triều thần vốn không ưa Sumana, anh trai Asoka, và muốn đẩy ông này rời xa kinh đô nên đã dàn xếp việc đề cử Sumana đi Taxilà thay vì Asoka. Tài liệu này ghi nhận rằng trong khi hoàng tử Sumana thất bại trong việc dẹp loạn ở Taxilà, ngai vàng Pàtaliputra bị bỏ trống, Asoka liền chiếm đoạt ngai vàng với sự giúp sức của các triều thần và sau đó tìm cách chống lại anh trai mình, người bị sát hại trong lúc cố phế truất kẻ cướp ngôi.

Như vậy, theo cả hai nguồn tài liệu Nam truyền và Bắc truyền thì Asoka là người chiếm đoạt ngai vàng vương quốc Magadha. Có điều tài liệu Tích Lan nêu con số người bị sát hại liên quan đến việc chiếm ngôi của Asoka lên đến 99, trong khi tài liệu Bắc truyền chỉ nói một mình Sumana bị giết. Cũng có những tác giả khác không gán cho Asoka bất kỳ hành vi giết hại nào đối với anh em ông nhưng đề cập ông đã áp dụng những chính sách tàn bạo. Tác phẩm Asokàvadàna, chẳng hạn, mô tả Asoka là kẻ giết hại các thuộc hạ của mình, thiêu sống nhiều phụ nữ trong hoàng cung, thiết lập một ngục tù để hành hình những người vô tội. Cũng theo Asokàvadàna, Asoka treo giá cho những chiếc đầu của các tu sĩ Bà-la-môn cố tình sỉ nhục các tượng Phật, sự việc chỉ chấm dứt khi Vitàsoka, em trai ông, can thiệp. Những việc như thế này chắc chắn chỉ có thể xảy ra trước khi Asoka chính thức trở thành một Phật tử. Càng về sau, như các bia ký của ông đã nói rõ, Asoka càng tỏ rõ là ông vua hiền thiện và mộ đạo. Truyền thuyết Tích Lan kể rằng Asoka quá chăm chút cây Bồ-đề đến nỗi bà vợ Tishyarakshita trẻ đẹp của ông trở nên ghen tỵ muốn triệt hạ cây này. Huyền Trang (Yuan Chwang), nhà chiêm bái và học giả Trung Hoa du học Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ bảy, ghi nhận câu chuyện và nói thêm rằng để bảo vệ, Asoka đã cho xây một bức tường đá bao bọc cây Bồ-đề. Theo Pháp Hiển (Fa-hsien), một tu sĩ Phật giáo Trung Hoa đến Ấn Độ khoảng đầu thế kỷ thứ V, thì bà hoàng này muốn triệt hạ cây Bồ-đề vì thường xuyên thấy Asoka lễ bái dưới gốc cây.

Ngày nay đa số các học giả đều cho rằng Asoka trở nên thánh thiện nhờ những ảnh hưởng Phật giáo. Dù sao, những việc mà Asoka đã làm trước khi trở thành một Phật tử chân chính cũng khó tránh được cái tên Candàsoka mà người ta đã gán cho ông. Chỉ một việc ông đánh chiếm xứ Kalinga trong đó hàng trăm ngàn người bị giết chết và hàng trăm người khác bị bắt tù đày và làm nô lệ cũng đủ cho người đời “ban tặng” ông danh hiệu Candàsoka. Không hiếm các vị vua trong lịch sử mang tên như ông, Candàsoka. Nhưng hiếm có vị vua nào lại có thể thay đổi tâm tính một cách triệt để như Asoka để từ một người có biệt danh Candàsoka người ta lại tôn xưng ông là Dhammàsoka

Tài liệu tham khảo:

– Kinh Trường bộ, I & II, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991. – Kinh bộ Tăng chi, II & IV, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1996. – Kinh Tiểu bộ, I, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1999.

– Thích Minh Châu, Trung bộ kinh, II, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1974. – B. M. Barua, Asoka and his Inscriptions, New Age Publishers Ltd., Calcutta, 1955. – H. C. Raychaudhuri, Political History of Ancient India, Calcutta, 1938. – J. Takakusu, A Record of the Buddhist Religion as practised in India and the Malay Archipelago, Oxford, 1896. – V. A. Smith, The Early History of India, Oxford, 1924. – J. Przyluski, La Legende de I’Emperur Asoka, Paris, 1923. – R. Mookerji, Asoka, Motilal Banarsidass Publishers, Pvt. Ltd., Delhi, 1989.

THUẦN KHIẾT

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Số 348

Asoka - Từ tàn bạo tới thành đạo 

Ngày nay, hầu hết người Ấn Độ đều là tín độ đạo Hindu, dù vậy, Phật giáo đã từng trở thành quốc giáo tại quê hương mình sau khi Đức Phật nhập diệt hai hơn thế kỷ. Đó chính là thời kỳ trị vì của đại đế Asoka, một trong những ông vua kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ. 

Mời Đạo hữu ngắm và cung thỉnh tôn tượng Đức Thích Ca Mâu Ni tại đây.

Lúc bấy giờ, chính pháp của Đức Phật được truyền bá rộng rãi khắp đất nước Khổng Tước, thậm chí còn vươn xa đến các quốc gia lân cận. Vua Asoka cai trị vương triều Maurya từ năm 273 đến năm 232 trước công nguyên, đất nước Khổng Tước khi ấy bao gồm một phần Nam Á rộng lớn từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay. Chính vì sự chinh phạt nhiệt liệt và thành công này, vua Asoka còn được mệnh danh là bạo đế. Vậy rốt cuộc điều gì đã thôi thúc vị hoàng đế máu lạnh này biến thành một bản thân khác hẳn và xiển dương đạo pháp của Sakyamuni? 

Trước khi trở thành Phật tử, đại đế Asoka đã điều hành nhà nước của mình theo đường lối hết sức khắc nghiệt và thô bạo. Các khung hình phạt mà ông đặt ra được mô tả lại trong sử sách không khác gì địa ngục, những tội nhận luôn bị hành hình theo cách tàn nhẫn. Người đứng đầu vương quốc Khổng Tước thậm chí còn đặt cho nhà giam của mình cái tên “địa ngục trần gian”. 

Truyền thuyết kể rằng, có một lần sau khi kết thúc cuộc chinh chiến, vua Asoka cưỡi ngựa dạo quanh phía đông thành phố. Như sự an bài của nhân duyên, vị vua nổi tiếng hiếu chiến lại chứng kiến tàn cuộc thê lương, xác người la liệt, nhà cửa chạy rụi thành tro. Tất thảy hình ảnh hoang tàn đó, đều là hệ luỵ kéo theo sau vó ngựa chồng chéo của Asoka. 

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Và rồi Asoka không chỉ buông bỏ vũ khí, quy y làm Phật tử, mà còn là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ chủ trương hoà bình triệt để. Nhờ học hỏi theo con đường thức tỉnh của Đức Thế Tôn, Asoka đã đưa triều đại Maurya lên bậc phồn vinh, thái bình thịnh trị. 

Triết lý của Đức Phật sau hơn hai trăm năm Ngài nhập diệt đã trở thành quốc giáo của nước Khổng Tước. Giai đoạn chinh phạt chính thức chấm dứt, đường lối thông thương với ngoại bang cũng ảnh hưởng bởi Phật giáo. Khả quan hơn, vua Asoka điều hành cả vương quốc khổng lồ mà không cần đàn áp, dân lành không bị hà hiếp, càng không dùng vũ lực. Thay vào đó, các đạo luật cực đoan được bãi bỏ, nhà vua trở thành tấm gương tu học Phật pháp và lấy đức hạnh làm trọng. 

Hai người con song sinh của Asoka là Mahindra và Sanghamitta cũng đã xuất gia, góp không ít sức lực trong công cuộc truyền bá Phật giáo đến Tích Lan (Sri Lanka ngày nay). Trong chuyến đi của mình, họ đang mang một nhánh của cội Bồ Đề tại Bodhgaya sang trồng tại kinh đô Tích Lan thời điểm đó. Người dân Sri Lanka ngày nay còn tận mắt chứng kiến nhánh Bồ Đề đó sinh sôi thành cây lớn, dù đã hơn 2300 năm sau. 

Các công trình khảo cổ đã khai quật được di chỉ bia ký, hay còn gọi là trụ đá mà vua Asoka cho dựng lên để nhiều người lĩnh hội chân lý của Như Lai. Từ đó, hậu thế khẳng định dấu ấn thời kỳ Phật giáo huy hoàng, chói lọi như tâm huyết của đại đế Asoka còn chính xác và chân thực hơn các thư tịch về sự kiện lịch sử. 

Hoàng đế Asoka định nghĩa rõ ràng về từ “dharma” (pháp): “Không có nguyên nhân nào làm phát sinh ra tội lỗi khi tràn đầy những hành vi đạo hạnh, lòng thương cảm, bố thí, tính trung thực, sự tinh khiết.” Ngoài ra, còn có rất nhiều các chỉ dụ khác hàm chứa nguyên tắc đạo đức xã hội, có nghĩa tương đồng với kinh cú, nhằm nhắc nhở các giới luật mà tín đồ Phật giáo phải giữ gìn. 

Từ hành trình tự giải thoát của vua Asoka, tôi thấu cảm được nội tâm đang dần sáng suốt của chính mình sau thời gian dài tiếp cận triết lý của Đức Phật. Hệt như vị hoàng đế vĩ đại đi từ bản tính bạo quân đến người Phật tử nhân hậu, việc tụng niệm những dòng kinh văn từ bi nhất đã phần nào cải biến được bản thân để thoát ly khỏi cái tôi thực dụng, lãnh cảm. Tinh thần phụng sự của vua Asoka khiến vãn bối như tôi cực kỳ khâm phục, cũng là tấm gương sáng phải phấn đấu noi theo. Còn xa diệu vợi mới nói được đến sự giác ngộ cao cả, nhưng trước hết tôi học được thái độ sống tích cực, tương trợ giữa người với người và lối đối nhân xử thế tinh tế hơn. 

Giống như quá trình kiên trì chuyển hoá chính mình của đại đế Asoka, đạo Phật trong trái tim tôi bền bỉ và rực rỡ hơn cả những tia sáng. 

*Bài dự thi được gửi từ tác giả Phạm Anh Thư; địa chỉ: 290B/32/25 Dương Bá Trạc, phường 01, quận 08, Tp.HCM.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state