Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Đại Đức Udāyi (Ưu Đà Di) – Gần đèn mà đâu có sáng
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Udāyi (Ưu Đà Di). Tương truyền rằng: Thừa lúc các vị cao Tăng đi vắng, Đại đức thường vào giảng đường, ngồi lên pháp tọa, vì thế, một hôm những Tỳ khưu ở xa mới tới trông thấy Đại đức ngỡ rằng: “Vị nầy chắc là bậc cao Tăng, nghe nhiều học rộng”. Cho nên đến nhờ Đại đức giảng giải về Pháp số như Ngũ uẩn chẳng hạn. Té ra Đại đức không biết gì ráo. Chư Tăng bèn trách rằng: “Ông sư đó là ai? Ở chung chùa với Đức Phật làm chi mà Ngũ uẩn, Tứ đại, Lục căn gì hỏi ổng cũng không biết hết?”. Đoạn chư Tăng đem việc ấy bạch lên Đức Như Lai.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:96

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Đại Đức Udāyi (Ưu Đà Di) – Gần đèn mà đâu có sáng

 

 

 

Đại đức Ưu-đà-di (Udāyi) là một vị Tỳ-kheo trong Phật giáo, được biết đến qua một câu chuyện trong Kinh Pháp Cú. Câu chuyện kể rằng, một lần nọ, khi các vị Tăng lớn đi vắng, Đại đức Ưu-đà-di đã tự ý lên pháp tọa và giảng giải về Phật pháp cho các Tỳ-kheo khác, dù bản thân không có kiến thức gì về những điều đó. Khi bị phát hiện, các Tỳ-kheo đã trách mắng và báo lại với Đức Phật. 

Từ câu chuyện này, Đức Phật đã giảng dạy về tầm quan trọng của việc học và hiểu biết Phật pháp trước khi giảng dạy cho người khác, cũng như việc không nên giả vờ hiểu biết khi chưa thực sự nắm vững. 

Tóm tắt:

  • Đại đức Ưu-đà-di là một vị Tỳ-kheo được nhắc đến trong Kinh Pháp Cú.

  • Ông đã tự ý giảng pháp khi chưa có kiến thức, bị các Tỳ-kheo khác phát hiện và báo lên Đức Phật.

  • Câu chuyện này là bài học về việc học và hiểu biết Phật pháp trước khi giảng dạy. 

 

2. Udāyī. - Một vị trưởng lão. Có lần đến lượt ngài tụng giới bổn Pātimokkha trước Tăng đoàn, nhưng vì giọng ngài khàn đặc (kākasaraka), ngài phải xin phép để cố gắng đặc biệt sao cho tiếng tụng của ngài có thể được mọi người nghe rõ (Vin.i.115). Có lẽ chính vị sư này được nhắc đến trong Luật tạng là đã phạm nhiều tội Tăng già (Vin.iii.110f, 119f, 127f, 137f, 135ff).

Ông ta bị khiển trách hết lần này đến lần khác và bị áp dụng nhiều hình phạt khác nhau, tuy nhiên ông ta vẫn tái phạm (Vin.ii.38ff). Trong Nissagyiya (Vin.iii.205f) có kể một câu chuyện về một nữ tu, một tình nhân cũ của Udāyī, người đã thụ thai một đứa con bằng cách chạm vào một chiếc áo mà ông ta mặc. Một lần khi Uppalavannā yêu cầu ông ta mang một ít thịt đến cho Đức Phật, ông ta đã yêu cầu chiếc áo choàng bên trong của bà làm phí (Vin.iii.208). Ông ta dường như rất thích bầu bạn với phụ nữ và họ cũng đáp lại tình cảm của ông ta. (Xem, ví dụ, Vin.iv.20, 61, 68). Rõ ràng có một dòng máu tàn ác trong ông ta, vì chúng ta được kể về việc ông ta bắn những con quạ và nhổ chúng ra với đầu bị cắt đứt (Vin.iv.124). Ông ta được mô tả là béo (Vin.iv.171). Có lẽ ông ta được đồng nhất với Lāludāyī .

 

  • Lāludāyī Thera (Vatthu)

An Elder who possessed the knack of saying "the wrong thing." He would go to a place where people were enjoying a holiday and recite stanzas suitable to a funeral and vice versa (DhA.iii.123ff). When the Buddha heard of this he related the Somadatta Jātaka, showing that in past births, too, Lāludayī had possessed the same propensity. He is identified with the foolish father (Agnidatta) of the story (J.ii.167; DhA.iii.125). We also read of his jealousy of the praises bestowed on Sāriputta and Moggallāna for their knowledge and exposition of the Law, and he claimed that he possessed knowledge equal to theirs. But one day when asked to preach, he sat on a seat holding a painted fan, but found nothing to say. He thereupon agreed to preach in the evening; but the same thing happened, and he barely escaped with his life, so furious was his audience. The Buddha, on hearing of this, related the Sūkara Jātaka (in which Lāludāyī was the pig), showing that in the past, too, he had covered himself with disgrace because of his boastfulness. J.ii.344ff.; but according to the introductory story of the Jātaka itself (in J.ii.9ff.), Lāludāyī's name is not mentioned, and the incident described differs somewhat.

On another occasion, he had a dispute with Dabba Mallaputta regarding the allotment of the rice tickets, and the monks, in order to teach him a lesson, handed him the tickets to distribute. But he created such confusion that there was a great uproar, and Ananda was sent by the Buddha to find out what was happening. When Amanda returned with this story, the Buddha related the Tandulanāli Jātaka to show that in the past Lāludāyī had been a foolish appraiser (J.i.123ff). The Nangalīsa Jātaka gives another example of his folly and ineptitude (J.i.446ff); so does also the Padañjali Jātaka (J.ii.263f), where he is identified with Padañjali, an idle, lazy loafer. In the Mahāummagga Jātaka (J.vi.478) he is identified with the somewhat foolish king, Vedeha.

Lāludāyī once had a discussion with Pasūra, who, at first, thought him to be clever and wise, and accepted him as teacher, being ordained by him. But, later, Pāsura easily defeated him in discussion (SNA.ii.540). Others, too, visiting Jetavana, and seeing him in the Preacher's seat, mistook him for an eminent Elder, but soon discovered their mistake (E.g., DhA.ii.31).

On one occasion (A.iii.192f.; AA.ii.628) Lāludāyī even dared to contradict Sāriputta regarding birth among the manomayadevā ??. Three times Sāriputta repeated his statement and three times Lāludāyī contradicted him, and, there being no monk in the assembly who supported Sāriputta, he took Lāludāyī to the Buddha, where he three times repeated the same statement, being three times contradicted. Then the Buddha called Lāludāyī "a witless fool" and silenced him. Ananda was witness to the dispute, but took no part in it, thereby winning the Buddha's censure.

Elsewhere (A.iv.414f.; AA.ii.810), however, we find Lāludāyī listening in all humility to a discourse by Sāriputta on Nibbāna, as the happiness which is not sensed (avedayitasukha). Though Udāyī's knowledge of the Dhamma was not profound, he did not hesitate to take part in a discussion, even with the Buddha himself, when occasion arose. We find him twice censured by the Buddha for this exhibition of his ignorance, once in the Mahākamma vibhanga Sutta (M.iii.208) and once again in a discussion on anussati (A.iii.322f). In both instances Ananda is present, and, in the discussion on anussati, he earns the Buddha's praise for his knowledge compared with Udāyī's ignorance. This annoyed Udāyī, for we find him confronting Ananda with the fact that though he had been in the constant society of the Buddha he had not profited by it, a remark which earned the censure of the Buddha and his assurance that Ananda would certainly reach perfection in that very life (A.i.228; AA.i.441).

Buddhaghosa (ThagA.ii.7; some of the MSS. read nātakācariyaputta ) calls Lāludāyī Kovariyaputta. It is not clear whether this means that his father was called Kovariya.

The Vinaya (Vin.iii.110) mentions a monk called Udāyī who was a colleague of Seyyasaka. He persuaded Seyyasaka to commit the first Sanghādisesa offence, saying that he himself acted likewise. For this the Mānatta penalty was imposed on him.

According to the Commentaries, (Sp.iii.517; DhA.iii.5) this Udāyī is to be identified with Lāludāyī, and if this be correct, it was perhaps the same monk who was guilty of several Vinaya offences attributed to Udāyi - see Udāyi (2) - though the Vinaya Commentary does not elsewhere (E.g., Sp.iii.541, 549, 552, where he is simply called Udāyi) definitely so identify him, except once (Sp.iv.804), where he is mentioned as having made an embroidered robe for a nun, which he persuaded her to wear in the assembly of the nuns! Was this because the Commentator regarded the two Udāyis as distinct persons? (E.g., MA.i.348).

Lāludāyī is given as an example of a person who did no good either to himself or to others (neva attahitāya patipanno no parahitāya). Buddhaghosa elsewhere (Sp.iii.517) describes him as “bhantamigasappatibhāgo niddārāmatādim anuyuttānam aññataro lolabhikkhu."

 

  • Lāludāyī Thera (Vatthu)

Một vị Trưởng lão có biệt tài nói "sai lời". Ông ta thường đến những nơi mọi người đang nghỉ lễ và đọc những bài kệ thích hợp cho đám tang, và ngược lại (DhA.iii.123ff). Khi nghe chuyện này, Đức Phật đã kể lại chuyện Tiền Thân Somadatta , cho thấy rằng trong những kiếp trước, Lāludayī cũng có khuynh hướng tương tự. Ông ta được đồng nhất với người cha ngu ngốc (Agnidatta) trong câu chuyện (J.ii.167; DhA.iii.125). Chúng ta cũng đọc thấy ông ta ghen tị với những lời khen ngợi dành cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên về kiến ​​thức và sự giảng giải Giáo Pháp của họ, và ông ta tự cho mình có kiến ​​thức ngang bằng với họ. Nhưng một ngày nọ, khi được mời thuyết giảng, ông ta ngồi trên một chiếc ghế cầm một chiếc quạt sơn, nhưng không tìm được gì để nói. Sau đó, ông ta đồng ý thuyết giảng vào buổi tối; nhưng điều tương tự đã xảy ra, và ông ta suýt mất mạng, vì thính giả của ông ta đã vô cùng phẫn nộ. Đức Phật, khi nghe chuyện này, đã kể lại Sūkara Jātaka (trong đó Lāludāyī là con lợn), cho thấy rằng trong quá khứ, ông cũng đã tự làm mình ô nhục vì tính khoe khoang của mình. J.ii.344ff.; nhưng theo câu chuyện mở đầu của chính Jātaka (trong J.ii.9ff.), tên của Lāludāyī không được đề cập đến, và sự việc được mô tả có phần khác biệt.

Một lần khác, ông ta có một cuộc tranh cãi với Dabba Mallaputta về việc phân chia phiếu gạo, và các nhà sư, để dạy cho ông ta một bài học, đã đưa cho ông ta phiếu để phân phát. Nhưng ông ta đã tạo ra sự nhầm lẫn đến mức có một sự náo động lớn, và Đức Phật đã phái Ananda đi tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra. Khi Amanda trở về với câu chuyện này, Đức Phật đã kể lại Tandulanāli Jātaka để chỉ ra rằng trong quá khứ Lāludāyī đã là một người thẩm định ngu ngốc (Ji123ff). Nangalīsa Jātaka đưa ra một ví dụ khác về sự ngu ngốc và bất tài của ông ta (Ji446ff); cũng như Padañjali Jātaka (J.ii.263f), trong đó ông ta được đồng nhất với Padañjali, một kẻ lười biếng, nhàn rỗi. Trong Mahāummagga Jātaka (J.vi.478), ông ta được đồng nhất với vị vua có phần ngu ngốc, Vedeha.

Lāludāyī từng tranh luận với Pasūra , người ban đầu nghĩ rằng ông thông minh và sáng suốt, nên đã nhận ông làm thầy và được ông truyền giới. Nhưng sau đó, Pāsura đã dễ dàng đánh bại ông trong cuộc tranh luận (SNA.ii.540). Những người khác, khi đến thăm Jetavana và thấy ông ngồi trên tòa giảng sư, cũng lầm tưởng ông là một vị Trưởng lão lỗi lạc, nhưng sớm nhận ra sai lầm của mình (Ví dụ, DhA.ii.31).

Có lần (A.iii.192f.; AA.ii.628), Lāludāyī thậm chí còn dám cãi lại Sāriputta về việc sinh ra trong hàng ngũ manomayadevā. Sāriputta lặp lại lời tuyên bố của mình ba lần, và Lāludāyī cũng phản bác lại. Vì trong hội chúng không có vị tỳ kheo nào ủng hộ Sāriputta, nên Lāludāyī đã dẫn Lāludāyī đến gặp Đức Phật, và Ngài lặp lại cùng một lời tuyên bố ba lần, và cả ba lần đều bị phản bác. Đức Phật gọi Lāludāyī là "kẻ ngu ngốc" và bắt ông im lặng. Ananda chứng kiến ​​cuộc tranh luận, nhưng không tham gia vào, do đó đã thắng được sự khiển trách của Đức Phật.

Tuy nhiên, ở những nơi khác (A.iv.414f.; AA.ii.810), chúng ta thấy Lāludāyī lắng nghe với tất cả sự khiêm nhường một bài giảng của Sāriputta về Niết bàn , như là hạnh phúc không được cảm nhận (avedayitasukha). Mặc dù kiến ​​thức về Pháp của Udāyī không sâu sắc, ông đã không ngần ngại tham gia vào một cuộc thảo luận, ngay cả với chính Đức Phật, khi có dịp. Chúng ta thấy ông đã bị Đức Phật khiển trách hai lần vì sự thể hiện sự thiếu hiểu biết này của mình, một lần trong Kinh Mahākamma vibhanga (M.iii.208) và một lần nữa trong một cuộc thảo luận về anussati (A.iii.322f). Trong cả hai trường hợp, Ananda đều có mặt, và trong cuộc thảo luận về anussati , ông đã nhận được lời khen ngợi của Đức Phật về kiến ​​thức của mình so với sự thiếu hiểu biết của Udāyī. Điều này làm Udāyī khó chịu, vì chúng ta thấy ông đối chất với Ananda về sự thật rằng mặc dù ông đã luôn ở trong mối quan hệ với Đức Phật nhưng ông không được lợi ích gì từ điều đó, một nhận xét khiến Đức Phật khiển trách và đảm bảo rằng Ananda chắc chắn sẽ đạt đến sự hoàn hảo ngay trong kiếp sống đó (Ai228; AA.i.441).

Buddhaghosa (ThagA.ii.7; một số bản thảo đọc là nātakācariyaputta) gọi Lāludāyī là Kovariyaputta. Không rõ liệu điều này có nghĩa là cha của ông có tên là Kovariya hay không.

Luật tạng (Vin.iii.110) có đề cập đến một vị sư tên là Udāyī, bạn đồng tu của Seyyasaka . Ông ta đã thuyết phục Seyyasaka phạm tội Sanghādisesa đầu tiên, nói rằng chính ông ta cũng làm như vậy. Vì tội này, ông ta bị phạt Mānatta.

Theo các Chú giải, (Sp.iii.517; DhA.iii.5) vị Udāyī này được đồng nhất với Lāludāyī, và nếu điều này đúng, thì có lẽ cùng một vị sư đã phạm một số tội Vinaya được gán cho Udāyi - xem Udāyi (2) - mặc dù Chú giải Vinaya không ở nơi nào khác (Ví dụ, Sp.iii.541, 549, 552, nơi ông chỉ được gọi là Udāyi) xác định ông một cách chắc chắn như vậy, ngoại trừ một lần (Sp.iv.804), nơi ông được đề cập là đã may một chiếc áo choàng thêu cho một nữ tu, mà ông đã thuyết phục bà mặc trong hội đồng các nữ tu! Có phải vì Nhà chú giải coi hai vị Udāyi là những người riêng biệt không? (Ví dụ, MA.i.348).

Lāludāyī được đưa ra như một ví dụ về một người không làm điều tốt cho bản thân hoặc cho người khác (neva attahitāya patipanno no parahitāya). Buddhaghosa ở nơi khác (Sp.iii.517) mô tả ngài là “bhantamigasappatibhāgo niddārāmatādim anuyuttānam aññataro lolabhikkhu.”

 

Ưu Ðà Di (UDÀYI ) là một viên đại thần rất được sủng ái của đức vua Tịnh Phạn. Ông có biệt tài tổ chức các vấn đề kinh tế tài chánh và ngoại giạo. . . Nhưng cũng có một tật khá lớn là vô cùng háo sắc, đắm nguyệt say hoa.

 

Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển II

Phẩm Ngu Nhơn: Tích Đại Đức Ưu Đà Di

“Yāvajīvam’pi ce bālo,
Paṇḍitaṃ payirupāsati;
Na so dhammaṃ vijānāti,
Dabbī sūparasaṃ yathā”.

“Người ngu dầu suốt đời,
Thân cận bậc hiền minh,
Chẳng hiểu Pháp đến nơi,
Như muỗng đối vị canh”.

Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến Đại đức Udāyi (Ưu Đà Di). Tương truyền rằng: Thừa lúc các vị cao Tăng đi vắng, Đại đức thường vào giảng đường, ngồi lên pháp tọa, vì thế, một hôm những Tỳ khưu ở xa mới tới trông thấy Đại đức ngỡ rằng: “Vị nầy chắc là bậc cao Tăng, nghe nhiều học rộng”. Cho nên đến nhờ Đại đức giảng giải về Pháp số như Ngũ uẩn chẳng hạn. Té ra Đại đức không biết gì ráo. Chư Tăng bèn trách rằng: “Ông sư đó là ai? Ở chung chùa với Đức Phật làm chi mà Ngũ uẩn, Tứ đại, Lục căn gì hỏi ổng cũng không biết hết?”. Đoạn chư Tăng đem việc ấy bạch lên Đức Như Lai.

Đức Bổn Sư nhân dịp đó, thuyết pháp cho chư Tăng nghe, rồi đọc lên kệ ngôn:

“Yāvajīvam’pi ce bālo,
Paṇḍitaṃ payirupāsati;
Na so dhammaṃ vijānāti,
Dabbī sūparasaṃ yathā”.

“Người ngu gần bậc cao thâm,
Suốt đời cũng chẳng nhập tâm pháp mầu.
Muỗng nào biết nếm vị đâu,
Dầu cho vẫn nhúng ngập đầu trong canh”.

CHÚ GIẢI:
Bālo: Là người ngu dốt mà không chịu học hỏi, thật đáng gọi là người ngu. Theo như lời Đức Phật, dầu cho cả đời gần gũi, thân cận bậc trí tuệ cũng không thuộc được ít nhiều Phật ngôn trong tam Tạng, hoặc là không phân biệt rành rẽ rằng: “Đây là chỗ Tịnh cư, đây là chỗ hành đạo (ācāro), đây là chỗ khất thực (gocaro). Điều nầy phạm giới, điều này không phạm giới, việc nầy nên làm theo, việc nầy chẳng nên làm theo. Việc nầy phải hành, việc nầy phải tự mình chứng nghiệm…”.

Dabbī sūparasaṃ yathā: Như muỗng đối với vị canh. Quả thật cái muỗng nằm trong tô canh có nhiều gia vị, cho tới cạn hết tô canh đi nữa, cũng không nếm được mùi vị của canh là mặn hay chua, hay là lạt, đắng, hay là cay… hoặc ngon hay dở như thế nào thì người ngu dốt suốt đời ở bên cạnh người trí cũng không biết được các pháp đã giải ở trên, cũng như thế ấy.

Đến cuối thời pháp, tâm của chư khách Tăng giải thoát hết mọi lậu hoặc.

Dịch Giả Cẩn Đề
Sống gần bên Phật suốt đời ông,
Kinh Phật không rành, đạo chẳng thông,
Pháp tọa lên ngồi cao ngất ngưởng,
Chư Tăng vấn nạn cứ chồng ngồng.
Phật ví ông như cái muỗng sành,
Hằng ngày vẫn tẩm, nhúng trong canh,
Nhưng vì thiếu hẳn phần tri giác,
Mùi vị làm sao có thể sanh?
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC ƯU ĐÀ DI

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state