Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Đại Phạm thiên Sahampati
When the Buddha was at the Ajapālanigrodha, hesitating as to whether or not he should preach the Dhamma, Sahampati appeared before him and begged of him to open to the world the doors of Immortality. The Buddha agreed to this urgent request (Vin.i.5f.;S.i.137f), and accepted from Sahampati the assurance that all the Buddhas of the past had also had no other teacher than the Dhamma discovered by them. S.i.139; see also S.v.167f.,185, 232, where he gives the same assurance to the Buddha regarding the four satipatthānas and the five indriyas; A.ii.10f.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:660

Các tên gọi khác

When the Buddha was at the Ajapālanigrodha, hesitating as to whether or not he should preach the Dhamma, Sahampati appeared before him and begged of him to open to the world the doors of Immortality. The Buddha agreed to this urgent request (Vin.i.5f.;S.i.137f), and accepted from Sahampati the assurance that all the Buddhas of the past had also had no other teacher than the Dhamma discovered by them. S.i.139; see also S.v.167f.,185, 232, where he gives the same assurance to the Buddha regarding the four satipatthānas and the five indriyas; A.ii.10f.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Đại Phạm thiên Sahampati

  • Sahampati

A Mahābrahmā.

When the Buddha was at the Ajapālanigrodha, hesitating as to whether or not he should preach the Dhamma, Sahampati appeared before him and begged of him to open to the world the doors of Immortality. The Buddha agreed to this urgent request (Vin.i.5f.;S.i.137f), and accepted from Sahampati the assurance that all the Buddhas of the past had also had no other teacher than the Dhamma discovered by them. S.i.139; see also S.v.167f.,185, 232, where he gives the same assurance to the Buddha regarding the four satipatthānas and the five indriyas; A.ii.10f.

Buddhaghosa (E.g., SA.i.155) explains that the Buddha was reluctant to preach, not on account of indolence, but because he wished Sahampati to make him this request. For, thought the Buddha, the world honours Brahmā greatly, and when people realized that Brahmā himself had begged of the Buddha to spread his teaching, they would pay more attention to it. Sahampati was, at this time, the most senior of the Brahmās (jettha-Mahābrahmā) (DA.ii.467).

Sahampati once saw that the brahminee, mother of Brahmadeva Thera, habitually made offerings to Brahmā. Out of compassion for her, Sahampati appeared before her and exhorted her to give her offerings to Brahmadeva instead (S.i.140f). On another occasion, when Kokāliya died and was born in Padumaniraya, Sahampati appeared before the Buddha and announced the fact to him (SN. p.125; cp. S.i.151; A.v.172).

The Samyutta (S.i.154f) contains a series of verses spoken by Sahampati at Andhakavinda, when the Buddha sat out in the open during the night and rain fell drop by drop. The verses are in praise of the life and practices of the monks and of the results thereof. Sahampati again visited the Buddha, simultaneously with Sakka, and as they stood leaning against a doorpost of the Buddha's cell, Sakka uttered a verse in praise of the Buddha. Sahampati then added another verse, exhorting the Buddha to preach the Doctrine, as there were those who would understand (S.i.233). A verse spoken by him immediately after the Buddha's death is included in the books (D.ii.157; S.i.158).

During the time of Kassapa Buddha, Sahampati was a monk, named Sahaka, who, having practised the five indriyas (saddhā, etc.), was reborn in the Brahma world. Thereafter he was called Sahampati (S.v.233). The Commentaries say (SNA.ii.476; SA.i.155) that he was an Anāgāmī Brahmā born in the Suddhāvāsā, there to pass a whole kappa, because he had developed the first Jhāna as a monk. The Buddhavamsa Commentary (BuA.p.11; see also p.29) says that, strictly speaking, his name should be "Sahakapati." When the Buddha attained Enlightenment, Sahampati held over the Buddha's head a white parasol three yojanas in diameter. BuA.239; this incident was sculptured in the Relic Chamber of the Mahā Thūpa (Mhv.xxx.74); cp. J.iv.266.

Once he offered to the Buddha a chain of jewels (ratanadāma) as large as Sineru (KhA.171; Sp.i.115; Vsm.201). On the day that Alindakavāsi Mahāphussadeva attained arahantship, Sahampati came to wait upon him (VibhA.352).

It has been suggested (VT.i.86, n.1) that Brahmā Sahampati is very probably connected with Brahmi Svayambhū of brahmanical literature.

 

Xuất hiện trong kinh Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Trung Bộ 67.Kinh Cātumā (Cātumā sutta)

Tóm tắt nội dung kinh Trung bộ 67

Phật ở Catuma trong rừng cây Kha lưu lặc, Xá lợi Phất và Mục kiền Liên dẫn về nhiều tân tỳ kheo. Họ gây nhiều tiếng động khi xếp đặt y bát và chào hỏi nhau. Phật hỏi A Nan: "Cái gì bên ngoài nghe như là hàng cá đang tranh giành với nhau?"[1] Tôn giả A Nan bạch Phật, đấy là năm trăm tân tỳ kheo do Xá lợi Phất và Mục kiền Liên dẫn đầu muốn đến yết kiến Thế tôn. Phật cho gọi họ đến bảo đi chỗ khác, không được ở gần Ngài.

Các tỳ kheo ấy sau khi đảnh lễ Phật, thu xếp y bát ra đi. Các Thích tử trú ở Catuma và Phạm thiên [2] đến xin Phật giúp đỡ chúng tỳ kheo này, vì họ xuất gia chưa lâu, nếu không được yết kiến Thế tôn, chẳng khác nào hạt giống không được tưới nước, nghé con không được gần bò mẹ.

Phật hoan hỉ với ví dụ ấy nên cho gọi các tân tỳ kheo đến dưới sự hướng dẫn của hai tôn giả. Phật hỏi họ nghĩ gì khi chúng tỳ kheo bị đuổi. Tôn giả Xá lợi Phất trả lời: "Bạch Thế tôn, con nghĩ từ nay Thế tôn sẽ ít bận rộn, chúng con cũng ít bận rộn, sẽ được trú trong hiện tại lạc."

Mục kiền Liên nói:"Con nghĩ rằng từ nay Thế tôn sẽ ít bận rộn, sẽ trú trong hiện tại lạc. Nhưng con và tôn giả Sariputta sẽ lãnh đạo chúng tỳ kheo này."

Phật khen Mục kiền Liên [3] và dạy:"Chỉ có Phật và hai tôn giả có thể lãnh đạo chúng tỳ kheo." Rồi Ngài giáo giới các tân tỳ kheo về bốn điều đáng sợ [4] cho những người xuống nước, là sóng, cá sấu, nước xoáy, cá dữ.

Có người do thấy khổ sinh tử, xuất gia từ bỏ gia đình. Khi được dạy về đi đứng nằm ngồi, cách mang y bát, vị ấy nghĩ những người này chỉ thuộc hàng con cháu ta, lại giảng dạy cho ta, và bất mãn hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ về sóng, nghĩa là phẫn não do tự ái.

Về ăn uống, vị ấy được dạy cái này được phép, cái này không được phép, nên ăn đúng thời, không nên ăn phi thời. Vị ấy suy nghĩ: Lúc ở nhà, muốn nhai cái gì ta nhai [5] cái đó, không cần được phép hay không được phép, đúng thời hay không đúng thời [6]. Bây giờ hình như các món ăn ngon đang bị chận đứng trên miệng. Vị ấy bất mãn hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ về cá sấu, nghĩa là tham ăn.

Lúc đi khất thực do không phòng hộ các căn, tỳ kheo trông thấy người đời hưởng thụ năm dục đâm ra tiếc nuối, từ bỏ học giới và hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ hãi về nước xoáy, nghĩa là năm dục.

Khi vào xóm làng trông thấy phụ nữ, do không phòng hộ các căn, không an trú chánh niệm, dục tình khởi lên phá hoại tâm vị ấy. Do bị dục tình phá hoại, vị ấy hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ về cá dữ, đồng nghĩa với phụ nữ.

Các tỳ kheo hoan hỉ tín thọ lời Phật dạy.


Đại Phạm thiên Sahampati. | HỌC để TU

Trong thời Đức Phật Kassapa (CaDiếp), tiền thân Đức Phật Gotama là Bồ Tát Jotipāla (Hộ Minh), Bồ Tát xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, Ngài kết thân với một trưởng lão có tên là Sahaka.

Trưởng lão Sahaka tu tập “năm quyền” trong thời Đức Phật Kassapa, Ngài đã chứng quả AnaHàm cùng với Sơ định, khi mệnh chung Ngài Sahaka tái sinh về cõi Sơ Thiền, là vị Phạm chủ cõi ấy được gọi là Sahampati.

Nên vào tuần lễ thứ năm khi Đức Thế Tôn ngồi dưới cội cây Ajapāla Nigrodha, quán xét về “năm quyền”, thấy rằng “năm quyền” có thể dẫn đến giác ngộ.

Đại phạm thiên Sahampati biết được tư tưởng của Đức Thế Tôn, nên đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:

– Bạch Thế Tôn, thuở xưa con sống đời sống phạm hạnh trong Giáo pháp Đức Phật Kassapa. Tại đấy mọi người gọi con là Tỳkhưu Sahaka.

Bạch Thế Tôn, nhờ tu tập, làm sung mãn “năm quyền”, sau khi từ bỏ dục tham đối với các dục, mệnh chung con sinh về cõi Sơ thiền. Tại đấy con được gọi là Sahampati.

Bạch Thế Tôn, con nhận biết như sau, con nhận thấy như sau: “Năm quyền được tu tập, được làm cho sung mãn, có thể đạt được Bất tử, lấy Bất tử làm mục đích, lấy Bất tử làm cứu cánh” ([99]).

Ngài Buddhaghosa trong bản Sớ giải kinh Tương Ưng cho biết: Ngài Sahaka chứng đạt quả ANahàm cùng với sơ định, khi mệnh chung Ngài Sahaka tái sinh về cõi Sơ thiền, sống trọn phần kiếp trái đất còn lại này.

Sau đó Ngài tái sinh về cõi Tịnh cư (suddhavāsa) ([100]).

Bản Sớ giải Phật Tông (Buddhavaṃsa – atthakathā) có giải thích: “Tên thật của Đại phạm thiên Sahampati là “Sahakapati” (nghĩa là “chủ nhân Sahaka”) ([101]). Sahampati là từ chữ Sahakapati mà ra.

Khi Bồtát SĩĐạtTa sắp chứng quả Vô thượng Chánh Giác, đang ngồi trên bảo tọa chiến thắng, Đại phạm thiên Sahampati cầm lộng trắng che mát cho Đức Bồtát, chiếc lộng trắng có đường kính là 3 dotuần ([102]).

Ngoài ra, Đại Phạm thiên Sahampati cùng dường đến Đức Phật chuỗi ngọc (ratanadāma) lớn như núi TuDi khi Đức Phật ngự lên cõi Phạm thiên để tế độ Phạm thiên Baka ([103]).

Trong thời Đức Phật, Đại Phạm thiên Sahampati là vị Đại Phạm thiên cao tột nhất (jeṭṭha mahābrahmaṇa) trong cõi Sơ thiền ([104]).

Trong kinh Tương Ưng, phẩm Tương Ưng Phạm thiên (Brahmasaṃyutta) có đề cập nhiều đến Đại Phạm thiên Sahampati như:

– Một thời, khi Đức Thế Tôn ngự trú tại thành XáVệ (Sāvatthi), trong tịnh xá KỳViên (Jetavanavihāra).

Trưởng lão Brahmadeva xuất gia trong Giáo pháp này, Ngài tinh cần thực hành pháp, không bao lâu chứng đạt quả ALaHán.

Để tế độ mẹ mình, Trưởng lão đi khất thực theo từng nhà, rồi đi đến nhà của mẹ mình.

Nhưng mẹ Ngài là một nữ Bàlamôn rất tôn sùng Đại Phạm thiên theo giáo hệ Bàlamôn.

Bà thường cúng dường lễ vật đến Đại phạm thiên theo cách tế đàn của Bàlamôn giáo, không thích cúng dường đến các samôn.

Đại phạm thiên Sahampati đã làm chấn động tâm nữ Bàlamôn thân mẫu của Trưởng lão Brahmadeva, Đại Phạm thiên Sahampati hiện ra giữa hư không trên nhà của nữ Bàlamôn cho nữ Bàlamôn trông thấy.

Rồi Đại Phạm thiên Sahampati cho biết mình là vị Phạm thiên thường được nữ Bàlamôn này cúng dường.

Nhưng đó không phải là “vật thực dùng trong phạm thiên giới”, rồi Ngài khuyên bà nên cúng dường đến Trưởng lão Brahmadeva ([105]).

– Khi Tỳkhưu Kokālika có tâm hận thù với hai vị Thượng thủ XáLợiPhất và MụcKiềnLiên.

Kokālika mệnh chung, tái sinh vào địa ngục sen hồng (padumaniraya); Đại phạm thiên Sahampati đến trình bạch cho Đức Thế Tốn biết là:

“Bạch Đức Thế Tôn, Tỳkhưu Kokālika có tâm hận thù hai vị Thưởng thủ XáLợiPhất và MụcKiềnLiên.

Sau khi mệnh chung, Tỳkhưu Kokālika đã tái sinh vào địa ngục Sen hồng ([106]).

– Khi Tôn giả Devadatta với ý định chia rẽ Tăng, thỉnh cầu Đức Thế Tôn năm điều là:

Chư Tỳkhưu phải ở rừng trọn đời.

Chư Tỳkhưu phải ở gốc cây trọn đời.

Chư Tỳkhưu phải đi khất thực trọn đời.

Chư Tỳkhưu phải mặc y “quăng bỏ” trọn đời.

Chư Tỳkhưu không được dùng cá, thịt.

Đức Thế Tôn dạy:

* Tỳkhưu nào muốn ở rừng thì ở rừng, Tỳkhưu nào muốn thọ dụng liêu, thất do cư sĩ cúng dường thì thọ dụng.

* Tỳkhưu nào muốn ở cội cây thì ở cội cây, nhưng chỉ được 8 tháng, còn bốn tháng mùa mưa phải tìm chỗ ở có mái che.

Tỳkhưu nào không muốn ở cội cây, có thể dùng nơi trú có mái che kín đáo như hang, động …

* Tỳkhưu nào muốn đi khất thực thì đi khất thực, Tỳkhưu nào được cư sĩ cung thỉnh đến tư gia thọ thực, có thể đến tư gia gia chủ thọ thực.

* Tỳkhưu nào muốn dùng y “quăng bỏ” thì cứ dùng, Tỳkhưu nào được cư sĩ cúng dường y có thể thọ dụng y ấy.

* Tỳkhưu nào không muốn dùng cá thịt thì không dùng, Tỳkhưu nào muốn dùng cá thịt thì cứ dùng, nhưng phải là loại thịt “tam tịnh nhục” (là không thấy người khác giết sinh vật ấy rồi cúng dường đến mình; không nghe “sinh vật ấy chết vì mình”; và không nghi “sinh vật ấy bị giết” để cúng dường đến mình).

Nghe Đức Thế Tôn từ khước 5 điều xin của mình, Tôn giả Devadatta chia rẽ Tăng và cùng 500 vị Tỳkhưu đi đến Gāyasīsa.

Đại Phạm thiên Sahampati đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi bạch rằng:

“Phalaṃ ve kaliṃ haṇti; phalaṃ veḷuṃ phalaṃ nalaṃ

Sakkāro kāpurisaṃ hanti; gabbho assatariṃ yathā’ti”.

“Buồng chuối hại cây chuối; tương tự như tre, lau ([107]).

Danh vọng hại kẻ ác; thai bào hại con la” ([108]).

Đức Thế Tôn im lặng chấp thuận ([109]).

– Một thời Đức Thế Tôn trú ở giữa cư dân xứ MaKiệtĐà, ở Andhakavinda. Đức Thế Tôn trú ở ngoài trời trọn đêm, mưa từng hạt một rơi xuống.

Khi đêm gần tàn, Đại Phạm thiên Sahampati đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, nói lên kệ ngôn tán thán “đời sống tu tập cùng những lợi ích của tu tập” ([110]).

– Đức XáLợiPhất khi sắp viên tịch, Ngài trở về làng Nalanda để tế độ thân mẫu là bà Sārī, Ngài chọn căn phòng nơi Ngài sinh ra đời, là nơi ngụ cuối cùng của dòng sinh tử luân hồi đối với Ngài.

Trong đêm cuối cùng ấy, vào lúc hừng sáng Đại Phạm thiên Sahampati đến đảnh lễ Đức XáLợiPhất lần cuối cùng (đầu hôm là Tứ Đại vương đến đảnh lễ Đức XáLợiPhất, giữa đêm là vua trời ĐếThích), tạo duyên lành cho bà Sārī tin tưởng Giáo pháp.

Khi các vị Thiên vương đến đảnh lễ Đức XáLợiPhất lần cuối, đã làm cho căn phòng của Ngài sáng rực, khiến bà Sārī kinh ngạc.

Sáng ra bà hỏi Đức XáLợi Phất:

– Này con, đầu hôm vì sao căn phòng của con sáng rực như vậy?

– Này bà gia chủ, đó là Tứ đại thiên vương đến viếng thăm.

– Ồ ! Con còn lớn hơn Tứ đại vương sao?

– Đúng vậy, này bà gia chủ.

– Này con, giữa đêm ai đến mà căn phòng của con sáng rực hơn ánh sáng đầu hôm vậy?

– Này bà gia chủ, đó là vua Trời ĐếThích.

– Ồ!, vậy con còn lớn hơn vua trời Đế Thích sao?

– Này bà gia chủ, sự thật là như vậy.

– Này con, gần sáng ai đến viếng thăm mà hào quang càng sáng rực hơn hai loại hào quang trước đó vậy?.

– Này bà gia chủ, đó là Đại Phạm thiên Sahampati.

– Ồ! Con còn lớn hơn cả Đại phạm thiên sao?

– Đúng như thế này bà gia chủ.

Bà Sārī hoan hỷ rằng: “Con ta cao thượng hơn cả vị Đại Phạm thiên. Con ta có được ân đức cao thương như thế này, thì còn nói gì đến ân đức của Đức Thế Tôn là vị thầy của con ta chứ”.

Tâm bà Sārī hoan hỷ vô cùng, phát sinh thành tín nơi ân đức của Đấng Như Lai.

Và nhân đó trước khi viên tịch, Đức XáLợiPhất đã thuyết lên pháp thoại tế độ thân mẫu chứng quả Dự Lưu.

– Vào đêm cuối cùng của Đức Thế Tôn ở vườn hoa Sālā Upavattana, trong xứ Kusinārā; Đại Phạm thiên Sahampati cùng với thiên chủ Đế Thích đến đảnh lễ Đức Thế Tôn.

Khi Đức Thế Tôn viên tịch, Đại Phạm thiên Sahampati cảm thán rằng:

“Sabbe’va nikkhipissanti bhūtā loke samussayaṃ.

Yathā etādiso Satthā loke appaṭi puggalo.

Tathāgato balappatto sambuddho parinibbuto’ti.

“Tất cả chúng sinh trong đời, đều từ bỏ thân (năm uẩn).

Bậc Đạo sư cao quý nhất trên đời, Ngài cũng như thế ấy.

Đấng Như Lai, bậc Chánh giác đại lực đã viên tịch”.

Tiếp theo vua Trời Đế Thích, nói kệ cảm thán rằng:

“Aniccā vata saṅkhārā uppādavayadhammino.

Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho’ti.

Các pháp hữu vi là vô thường, có tính sinh rồi diệt.

Đã có sinh tất có diệt, yên lặng chúng là an lạc”([111]).

Tương truyền Đức Ālindakavāsi – Mahāphussadeva người Tích Lan, Ngài là bậc an trú tâm trong thiền tịnh khi đi khất thực suốt 21 năm, bất chấp sự dị nghị của các cư dân hay nông dân trong làng.

Dù nỗ lực tinh tấn, nhưng Ngài chưa chứng đắc Đạo quả nên vào ngày lễ Tự Tứ (pavāraṇa), nghĩ đến việc “chưa thành đạt cứu cánh”, Ngài bật khóc. Nhưng không chán nãn, Ngài vẫn kiên trì thực hành pháp.

Vào mùa an cư thứ 21, duyên lành hội đủ, trong đêm sắp chứng đạt thánh quả ALaHán, toàn thân Ngài rực sáng, hoan hỷ với điều kỳ diệu này, một thiên nữ trú ở cuối đường kinh hành, dùng ngón tay trỏ phát sáng để soi đường cho Trưởng lão đi kinh hành.

Trưởng lão Mahāphussadeva chứng quả ALaHán trong đêm ấy, bấy giờ Tứ đại vương, vua trời Đế Thích cùng Đại Phạm thiên Sahampati lần lượt đến đảnh lễ Ngài, khiến quanh vùng cư trú của Ngài trở nên sáng rực.

Vị Trưởng lão trú trong rừng (vanavāsī) là Mahātissa đang thực hành pháp trong rừng gần đó, chứng kiến quang cảnh rực sáng vùng cư trú của Trưởng lão Mahāphussadeva.

Sáng hôm sau Trưởng lão Mahātissa đi đến gặp Trưởng lão Mahāphussadeva hỏi về điều kỳ diệu trong đêm qua.

– Này hiền giả, vì sao hôm qua nơi này sáng rực như thế?

Trưởng lão Mahāphussadeva né tránh rằng:

– Thưa Tôn giả, trú xứ sáng cũng là việc thường tình.

Nhưng với sự tra gạn của trưởng lão Mahātissa, trưởng lão Mahāphussadeva đành nói lên sự thật.

link: http://phatphapbuddhadhamma.com/nhung-noi-an-cu-mua-mua-cua-duc-phat/

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state