Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ – bạn thơ ấu sinh cùng ngày với Phật ( đệ nhất về hạnh làm cho các gia đình hoan hỷ)
Kāḷudāyī tương lai, sanh vào trong một gia đình danh giá trong kinh thành Haṃsavatī, thời của Đức Phật Padumuttara. Khi vị ấy nghe Đức Phật thuyết pháp thì vị ấy chứng kiến một vị tỳ khưu được Đức Phật vinh danh là ‘ Vị Thinh văn đệ tử Tối thắng có thể khơi dậy niềm tịnh tín trong quyến thuộc của Đức Phật, trước khi họ gặp Đức Phật’. Người đàn ông cao quý khởi tâm muốn được vinh dự như vậy trong Giáo pháp của một vị Phật đương lai, và sau khi làm lễ cúng dường to lớn, vị ấy bày tỏ ước nguyện của mình trước Đức Phật. Đức Phật bèn nói lời tiên tri về sự thành tựu ước nguyện của vị ấy.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:21

Các tên gọi khác

ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ – bạn thơ ấu sinh cùng ngày với Phật ( đệ nhất về hạnh làm cho các gia đình hoan hỷ)

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ – bạn thơ ấu sinh cùng ngày với Phật ( đệ nhất về hạnh làm cho các gia đình hoan hỷ)

  • Kāludāyī Thera

Son of one of Suddhodana's ministers at Kapilavatthu; he was born on the same day as the Buddha and grew up as his playfellow. After Gotama left the world, Suddhodana made Kāludāyī one of his most trusted counsellors. When the king heard of his son's Enlightenment he sent several of his ministers with large retinues to bring the Buddha to Kapilavatthu, but they all became arahants as soon as they heard the Buddha's preaching and then forgot their mission. In the end the king sent Kāludāyī, on the understanding that he should first be allowed to join the Order. (According to Mtu.iii.233, he was accompanied by Channa in this mission). He went to the Buddha and, having listened to him, himself became an arahant. When the rains fell, covering the earth with the glory of leaves and flowers, Kāludāyī felt that it was time for the Buddha to visit his kinsmen, and gave him their invitation, singing the season's beauties in a series of verses. The Buddha took sixty days in covering the sixty leagues from Rājagaha to Kapilavatthu, and each day Kāludāyī went by air to the king's palace to tell him of the progress made in the journey and to bring back to the Buddha from the palace a bowl full of excellent food. By the time the Buddha reached his home his kinsmen were already full of faith in him. Because Kāludāyī accomplished this feat, he was declared pre-eminent among those who gladdened the clans (kulappasādakānam aggo) (A.i.25; Thag.527-36; J.i.54, 86f; AA.i.107, 117; ThagA.i.497ff; UdA.168; DA.ii.425).

It is said that he was called Udāyī because he was born on a day on which the citizens were full of joy (udaggacittadivase jātattā); and called Kāla because of his slightly dark colour. AA.i.167; ThagA.i.498.

According to the Apadāna (ii.500f; see also Ap.i.86f, where another set of verses is attributed to Kāludāyī), Kāludāyī had been the son of a minister of Hamsavatī during the time of Padumuttara Buddha, and having heard the Buddha utter the praises of a monk skilled in converting families, had wished for the same eminence.

The Anguttara Nikāya (A.iv.449f) records a conversation between Udāyī (who, according to Buddhaghosa (AA.ii.815), is to be identified with Kāludāyī) and Ananda. Udāyī asks Ananda to explain in detail a question which is recorded in the Samyutta Nikāya (S.i.48) as having been asked of the Buddha by Pañcālacanda-devaputta (see Pañcāla Sutta).

The Dhammapada Commentary (iv.143) refers to an assembly at which Kāludāyī was present, his body of golden hue, sitting near Pasenadi, at sunset, with the moon rising in the eastern sky. Ananda looks at them and declares how the Buddha suffuses them all with his glory.

Kāludāyī is identified with Sakka in the Bhisa Jātaka (J.iv.314).

  • Kāludāyī Thera

Con trai của một trong những vị bộ trưởng của Suddhodana tại Kapilavatthu ; ông sinh cùng ngày với Đức Phật và lớn lên như bạn chơi của Ngài. Sau khi Gotama rời khỏi thế gian, Suddhodana đã chọn Kāludāyī làm một trong những cố vấn đáng tin cậy nhất của mình. Khi nhà vua nghe tin về sự Giác ngộ của con trai mình, ông đã cử một số bộ trưởng của mình cùng với đoàn tùy tùng đông đảo để đưa Đức Phật đến Kapilavatthu, nhưng tất cả họ đều trở thành A-la-hán ngay khi nghe Đức Phật thuyết giảng và sau đó quên mất nhiệm vụ của mình. Cuối cùng, nhà vua đã cử Kāludāyī đi, với sự hiểu biết rằng trước tiên ông nên được phép gia nhập Tăng đoàn. (Theo Mtu.iii.233, ông đã được Channa tháp tùng trong nhiệm vụ này). Ông đã đến gặp Đức Phật và sau khi lắng nghe Ngài, bản thân ông đã trở thành một vị A-la-hán. Khi mưa rơi, phủ kín mặt đất bằng vẻ đẹp rực rỡ của lá và hoa, Kāludāyī cảm thấy đã đến lúc Đức Phật đến thăm thân quyến của mình, nên đã mời Ngài, hát lên những bài kệ ca ngợi vẻ đẹp của mùa màng. Đức Phật đã đi sáu mươi ngày đường sáu mươi dặm từ Rājagaha đến Kapilavatthu, và mỗi ngày Kāludāyī đều đáp máy bay đến cung điện của nhà vua để báo cáo về những tiến triển trong chuyến đi và mang về cho Đức Phật một bát đầy thức ăn ngon từ cung điện. Khi Đức Phật về đến nhà, thân quyến của Ngài đã tràn đầy đức tin nơi Ngài. Vì Kāludāyī đã thực hiện được chiến công này, ông được tuyên bố là người nổi bật nhất trong số những người làm vui lòng các bộ tộc (kulappasādakānam aggo) (Ai25; Thag.527-36; Ji54, 86f; AA.i.107, 117; ThagA.i.497ff; UdA.168; DA.ii.425).

Người ta nói rằng ông được gọi là Udāyī vì ông sinh ra vào ngày mà người dân tràn ngập niềm vui (udaggacittadivase jātattā); và được gọi là Kāla vì màu da hơi sẫm của ông. AA.i.167; ThagA.i.498.

Theo Apadāna (ii.500f; xem thêm Ap.i.86f, trong đó một tập thơ khác được cho là của Kāludāyī), Kāludāyī là con trai của một vị quan của Hamsavatī vào thời Đức Phật Padumuttara, và sau khi nghe Đức Phật ca ngợi một nhà sư có tài cải đạo các gia đình, ông đã mong muốn có được địa vị cao quý tương tự.

Kinh Anguttara Nikāya (A.iv.449f) ghi lại cuộc trò chuyện giữa Udāyī (người mà theo Buddhaghosa (AA.ii.815), được xác định là Kāludāyī) và Ananda. Udāyī yêu cầu Ananda giải thích chi tiết một câu hỏi được ghi lại trong Samyutta Nikāya (Si48) là do Pañcālacanda-devaputta hỏi Đức Phật (xem Pañcāla Sutta ).

Chú giải Pháp Cú (iv.143) đề cập đến một hội chúng mà Kāludāyī có mặt, thân thể màu vàng óng, ngồi gần Pasenadi, lúc hoàng hôn, khi mặt trăng mọc lên ở phương Đông. Ananda nhìn họ và kể lại rằng Đức Phật đã ban cho họ vinh quang của Ngài.

Kāludāyī được xác định là Sakka trong Bhisa Jātaka (J.iv.314).

 

 

 

 

ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ

Nguyện vọng quá khứ

Kāḷudāyī tương lai, sanh vào trong một gia đình danh giá trong kinh thành Haṃsavatī, thời của Đức Phật Padumuttara. Khi vị ấy nghe Đức Phật thuyết pháp thì vị ấy chứng kiến một vị tỳ khưu được Đức Phật vinh danh là ‘ Vị Thinh văn đệ tử Tối thắng có thể khơi dậy niềm tịnh tín trong quyến thuộc của Đức Phật, trước khi họ gặp Đức Phật’. Người đàn ông cao quý khởi tâm muốn được vinh dự như vậy trong Giáo pháp của một vị Phật đương lai, và sau khi làm lễ cúng dường to lớn, vị ấy bày tỏ ước nguyện của mình trước Đức Phật. Đức Phật bèn nói lời tiên tri về sự thành tựu ước nguyện của vị ấy.

Đời sống Sa môn trong kiếp chót

Người đàn ông danh giá ấy đã gieo tạo nhiều việc phước cho đến hết cuộc đời. Vào lúc chết vị ấy chỉ tái sanh trong cõi hạnh phúc. Rồi vị ấy tái sanh vào lòng người mẹ thuộc gia đình quan lại cấp cao trong kinh thành Kapilavatthu. Sự tái sanh này xảy ra cùng lúc với sự thọ sanh của Đức Phật đương lai (Thái tử Siddhattha). Hai cậu bé sanh ra cùng ngày. Cha mẹ đặt đứa bé trong tấm vải trắng và dâng lên đức vua Suddhodāna để trở thành người hầu của thái tử Siddhattha.

Tên Kāḷudāyī

Vào ngày đặt tên cho đứa bé, người ta gọi là Udāyī vì cậu ta sanh vào ngày mà Phật đương lai đản sinh, và toàn thể kinh đô tràn ngập hoan hỉ và phấn khích với sự kiện ấy. Vì cậu bé có nước da hơi ngâm đen, nên chữ ‘kāla’(đen) được cho vào trước tên gốc Udāyī, cậu ta được gọi với cái tên đầy đủ là Kāḷudāyī. Thời thơ ấu, cậu bé Kāḷudāyī sống ở hoàng cung và cùng chơi với thái tử Siddhattha trong kinh thành Kapilavatthu.

Về sau thái tử Siddhattha từ bỏ thế gian, trải qua sáu năm khổ hạnh để tầm cầu chân lý, rồi thành đạo, Chuyển pháp luân, và giờ đây đang ngụ ở Rājagaha, nơi Ngài đi khất thực. (Vào nửa tháng hạ huyền của tháng lạnh Phusa trong năm 103 thuộc Đại kỷ nguyên). Khi vua Suddhodāna hay tin con trai, tức Đức Phật, đang ngụ ở tịnh xá Veḷuvana, trong kinh thành Rājagaha, vị ấy sai một vị quan cùng với một đoàn tùy tùng gồm một ngàn người với lịnh truyền là thỉnh cầu Đức Phật viếng thăm Kapilavatthu. Sứ giả nhà vua đã đi hết sáu mươi do tuần và đi vào tịnh xá Veḷuvana. Lúc bấy giờ Đức Phật đang thuyết pháp đến tứ chúng. Vị sứ giả ngồi ở mé ngoài của hội chúng và theo dõi bài Pháp của Đức Phật, nghĩ rằng thông điệp của vua sẽ được thông báo đến Ngài sau thời pháp. Nhưng ngay khi vị ấy chú ý lắng nghe thời Pháp thì vị ấy cùng với một ngàn tùy tùng đều chứng đắc đạo quả A-la-hán. Rồi tất cả một ngàn người đều trở thành tỳ khưu với tướng mạo của vị tỳ khưu sáu mươi hạ lạp, có đầy đủ các món vật dụng được tạo ra bởi thần thông (iddhimayaparikkhāra).

Theo quy luật đối với chư Thánh là không quan tâm đến những vấn đề thế sự, cho nên một ngàn vị tỳ khưu đã không truyền đạt thông điệp của vua Suddhodāna đến Đức Phật. Các ngài trú trong sự an lạc của A-la-hán quả chứng (arahatta-phala).

Vua Suddhodāna cảm thấy buồn bực vì không nhận được thông tin nào từ vị sứ giả và sai một vị quan khác với một ngàn tùy tùng với mục đích tương tự. Vị sứ giả này cũng đi đến trước Đức Phật, nhiếp

tâm vào thời pháp, và chứng đắc đạo quả A-la-hán ngay tại đó, cùng với một ngàn tùy tùng. Vua Suddhodāna đã lần lượt gởi đi chín đoàn sứ giả, mỗi đoàn gồm một ngàn người có một vị quan dẫn đầu, tất cả chín vị sứ giả và chín ngàn người đều bỏ qua phận sự truyền đạt của họ vì họ đã chứng đắc đạo quả A-la-hán trước khi truyền đạt thông điệp đến Đức Phật.

Phái đoàn của Kāḷudāyī đến Rājagacha


Lúc bấy giờ vua Suddhodāna đã xem xét lại tình huống: “ Chín vị quan hoàn toàn không có tình cảm với ta và vì thế họ không nói với con trai của ta, Đức Phật về chuyến viếng thăm đến kinh thành Kapilavatthu của chúng ta. Những người khác cũng làm như vậy. Nhưng Kāḷudāyī sanh ra cùng ngày với Đức Phật, là bạn với con trai của ta từ thời thơ ấu. Chàng trai này cũng có tình cảm với ta.” Và đức vua cho gọi Kāḷudāyī, bấy giờ là một vị quan, và nói với vị ấy rằng: “ Này con trai, hãy đến yết kiến Đức Phật, cùng một ngàn người, và thỉnh ngài về Kapilavatthu.”

Vị quan Kāḷudāyī thưa với đức vua rằng, “ Tâu đại vương, nếu đại vương cho phép hạ thần được trở thành tỳ khưu như những vị sứ giả trước thì hạ thần hứa sẽ thỉnh Đức Phật viếng thăm Kapilavatthu.” Đức vua phê chuẩn lời thỉnh cầu: “Này con trai, hãy làm như con muốn. Miễn sao Đức Phật, con trai của trẫm về thăm trẫm.”

“Thưa vâng, tâu đại vương,” Kāḷudāyī đáp lại. Đức vua cho phép, vị ấy rời khỏi kinh đô với một ngàn tùy tùng và đến Rājagaha. Khi ngồi ở mé ngoài của hội chúng, vị ấy nghe Đức Phật thuyết pháp. Sau khi kết thúc thời pháp, vị ấy cùng với một ngàn tùy tùng đều trở thành A-la-hán và được Đức Phật truyền phép xuất gia Thiện lai tỳ khưu.

Tỳ khưu Kāḷudāyī không quên sứ mệnh của mình. Vị ấy nghĩ rằng mùa lạnh không thích hợp để Đức Phật thực hiện chuyến đi dài đến Kapilavatthu. Khi mùa xuân đến với những hoa rừng nở rộ và cỏ lá xanh tươi, chỉ khi ấy Đức Phật nên lên đường đi đến Kapilavatthu. Bởi vậy. vị ấy chờ cho đến ngày rằm tháng Phagguna (từ tháng 2 đến

tháng 3 dương lịch) lúc đó vị ấy xướng lên sáu mươi câu kệ, vẽ ra một bức tranh khả ái của mùa xuân, giải thích với Đức Phật rằng đã đến lúc thích hợp để Ngài viếng thăm Kapilavatthu.

Đức Phật biết tâm của đại đức Kāḷudāyī và quyết định rằng đã đến lúc để Ngài viếng thăm Kapilavatthu. Tháp tùng bởi hai chục ngàn vị A-la-hán, Đức Phật đã thực hiện chuyến hành trình dài 60 do tuần bằng những bước đi ung dung (aturita-desacārika).

Lưu ý đến chuyến đi của Đức Phật, đại đức Kāḷudāyī đi đến hoàng cung của vua Suddhodāna bằng con đường hư không. Đức vua lấy làm hoan hỉ khi trông thấy đại đức đứng giữa không trung bên trên hoàng cung, và dâng chiếc ghế của vua làm chỗ ngồi cho vị tỳ khưu. Rồi đức vua đặt đầy bát của vị ấy những món ăn loại cứng và mềm đã được sửa soạn. Đại đức Kāḷudāyī di chuyển tựa như để ra đi. Đức vua nói với vị ấy: “ Này con trai, hãy thọ thực ở đây.” Đại đức Kāḷudāyī đáp lại: “ Tôi sẽ độ thực khi tôi trở lại với Đức Thế Tôn.” “ Đức Phật hiện đang ở đâu?” đức vua hỏi. “ Đức Phật hiện đang trên đường đi về Kapilavathu, được tháp tùng bởi hai chục ngàn vị A-la-hán, để viếng thăm đại vương.” “ Vậy thì, này con, hãy độ thực ở đây. Rồi mang vật thực đã được sửa soạn ở cung điện của trẫm đến cho Đức Phật mỗi ngày cho đến khi Ngài đến đây.”

Đại đức Kāḷudāyī độ thực tại hoàng cung, và rồi nhận lãnh phần vật thực của Đức Phật. Trong lúc đó, vị ấy thuyết pháp đến đức vua và những người trong hoàng cung bằng cách kể về những ân đức của Phật, cho họ nếm trước hương vị khoái lạc vô song mà họ sắp được trải nghiệm khi gặp Đức Phật. Ngay khi mọi người đang nhìn thì vị ấy bay lên không trung, mang bát vật thực và dâng cúng đến Đức Phật đang trên đường đi. Đức Phật nhận lấy nó và thọ thực.

Đại đức Kāḷudāyī tự mình nhận lấy nhiệm vụ thọ lãnh vật thực dành cho Đức Phật (và thuyết bài pháp thích hợp để làm ấm lòng vua Suddhodāna và những người trong hoàng gia đang mong ngóng Đức Phật) cho toàn thể chuyến hành trình đi bộ dài sáu mươi do tuần, đến Kapilavatthu, mỗi ngày đi được một do tuần. (Thói quen đáng ghi nhớ

mà đại đức Kāḷudāyī thực hiện là lấy vật thực về cho Đức Phật, là nền tảng để Đức Phật đặc biệt nêu danh vị ấy).

Sự hoạch đắc danh hiệu Etadagga

Vào một dịp, khi Đức Phật đang ngồi giữa chúng Tăng, Ngài quán xét về vai trò mà đại đức Kāḷudāyī gánh vác trong việc làm ấm lòng vua Suddhodana và quyến thuộc của Đức Phật và Ngài công bố:

Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ kulappasādakānaṃ yadidaṃ Kāḷudāyī.

Này các tỳ khưu, trong số các vị Thinh văn đệ tử của Như Lai mà có khả năng làm khơi dậy niềm tịnh tín đối với Như Lai trong tâm quyến thuộc của Như Lai, thì tỳ khưu

Kāḷudāyī là Đệ nhất.

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state