Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA – đệ nhất về hạnh tinh tấn chuyên cần ( nước da màu vàng đỏ)
Vị hiền nhân, Đại trưởng lão Soṇa Koḷivisa tương lai, đã sanh trong gia đình của các trưởng giả trong thời kỳ của Đức Phật Padumuttara, tên là Sirivaḍḍha. Khi Sirivaḍḍha đến tuổi trưởng thành, như những vị trưởng lão thuở xưa đã từng phát nguyện, vị ấy đi đến tịnh xá và đứng ở cuối của hội chúng nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi thấy Đức Phật ban danh hiệu etadagga cho một vị tỳ khưu nọ, là người tinh tấn bậc nhất (āraddha-vīriya), vị ấy động tâm, khi tự nhủ: “ Ta cũng nên trở thành người giống như vị tỳ khưu này trong tương lai!” Khi thời pháp đã mãn, vị ấy thỉnh mời Đức Phật và tổ chức đại thí (mahā-dāna) trong bảy ngày và phát nguyện y như những vị trưởng lão trước kia từng làm. Khi thấy sự thành tựu trong ước nguyện của vị thiện nam, Đức Phật bèn nói lời tiên tri và trở về tịnh xá.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:526

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA – đệ nhất về hạnh tinh tấn chuyên cần ( nước da màu vàng đỏ)

ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA – đệ nhất về hạnh tinh tấn chuyên cần ( nước da màu vàng đỏ)

5. Sona-Kolivisa Thera, also called Sukhumāla Sona (AA.ii.679).  He was born in Campā, his father being Usabhasetthi. From the time of his conception his father's wealth continued to increase, and, on the day of his birth, the whole town kept festival. Because in a previous birth he had given a ring, worth one hundred thousand, to a Pacceka Buddha, his body was like burnished gold - hence his name. (He was evidently called Kolivisa because he was a Koliyan, Ap.i.95, 21). His hands and feet were soft like bandhujīvaka-flowers, and a fine down grew on them (four inches long on his feet, Ap.i.298) curved "like ear ornaments." He lived in great luxury in three palaces, each having its own season.

King Bimbisāra, hearing of him, sent for him and Sona went with eighty thousand fellow townsmen.

In Rājagaha he heard the Buddha preach, and, winning faith, entered the Order with his parents' consent. The Buddha gave him a subject for meditation, and he went to Sītavana, but many people visited him and he was unable to concentrate. He strove hard, and, through pacing up and down in meditation, painful sores developed on his feet. But he won no attainment and was filled with despair. The Buddha saw this and visited him, and by preaching to him the Vīnūpamovāda Sutta (see Sona Sutta), taught him how to temper energy with calm. Thus corrected, he put forth fresh effort and attained arahantship (Thag.vss.632).

The Vinaya (i.179ff) gives details of Sona's visit to Bimbisāra. The king, being curious to see Sona's feet, sent for him. He and his eighty-thousand companions went to see the Buddha, and there they were greatly impressed by the iddhi-power of Sāgata. Sona then sought the Buddha alone and joined the Order. After ordination he walked about meditating, his feet bled, and his cankamana was covered with blood "like a slaughter house for oxen." After Sona attained arahantship, the Buddha gave him permission to wear shoes with one lining. Sona said he had abandoned eighty cartloads of gold and a retinue of seven elephants. He did not wish, as a monk, to have any luxuries which his colleagues did not share, The Buddha then gave permission to all monks to wear shoes with one lining.

In the time of Anomadassī Buddha he was a very rich setthi, and, having gone with others to the vihāra and heard the Buddha preach, he decorated a cankamana for the Buddha and a long hall (dīghasālā) for the monks. On the cankamana he scattered various flowers, and, above it, he hung canopies. In the time of Padumuttara Buddha he was a setthi of Hamsavatī named Sirivaddha. It was then that he resolved to win eminence as foremost of those who strove energetically (aggam āraddhaviriyānan), and in this he was successful (A.i.24). After the death of Kassapa Buddha Sona was a householder in Benares, and built a hut by the river for a Pacceka Buddha, whom he looked after during the rainy season. He was king of the gods for twenty five kappas, and seventy-seven times king among men under the name of Yasodhara. ThagA.i.544f.; cf. Ap.i.93f., where he is called Koliyavessa. The ApA. confused his story with that of Kutikanna; see also AA.i.130f., where the details are different, especially regarding the honour paid by Sona to the Pacceka Buddha. Once, on visiting the Pacceka Buddha's cell, he noticed that the ground outside it was muddy; so he spread on the ground a rug worth one hundred thousand, so that the Pacceka Buddha's feet might not be soiled.

The Apadāna mentions (Ap.i.298) a Thera, called Sona Kotivīsa, evidently identical with the above, the reason given for the name being that he gave away wealth equal in value to twenty crores (vīsa koti). His eminence is ascribed to the fact that, in the time of Vipassī Buddha, he made a lena (cave) for the Buddha and his monks and spread it with rugs. Buddhaghosa (AA.i.130) gives a variant of his name, calling him Kotivessa, and explains this by saying that he belonged to a vessa (merchant) family worth a crore.

The Sona Sutta (Cf. AA.ii.680, where he is described as gandhabbasippe cheko) mentions that Sona was a clever player of the vīnā before he joined the Order. It was the example of Sona Kolivisa which urged Nandaka and his brother, Bharata, to leave the world. ThagA.i.299.

5. Sona- Kolivisa Thera , còn được gọi là Sukhumāla Sona (AA.ii.679). Ngài sinh ra ở Campā , cha ngài là Usabhasetthi. Từ khi ngài thụ thai, tài sản của cha ngài ngày càng tăng, và vào ngày ngài chào đời, cả thị trấn đã tổ chức lễ hội. Vì trong một tiền kiếp, ngài đã tặng một chiếc nhẫn trị giá một trăm ngàn đô la cho một vị Phật Độc Giác, nên thân thể ngài như vàng ròng được đánh bóng - do đó ngài có tên như vậy. (Rõ ràng ngài được gọi là Kolivisa vì ngài là người Koliya, Ap.i.95, 21). Tay chân ngài mềm mại như hoa bandhujivaka, và một lớp lông tơ mịn mọc trên đó (dài bốn inch trên bàn chân ngài, Ap.i.298) cong "như đồ trang sức tai". Ngài sống trong cảnh xa hoa lộng lẫy trong ba cung điện, mỗi cung điện có mùa riêng.

Vua Bimbisāra nghe tin đã cho mời Sona và ông đã đi cùng tám mươi ngàn người dân trong thị trấn.

Tại Rājagaha, ngài nghe Đức Phật thuyết pháp, và nhờ đức tin, ngài đã xuất gia với sự đồng ý của cha mẹ. Đức Phật ban cho ngài một đề tài thiền định, và ngài đến Sītavana. Nhưng nhiều người đến thăm viếng khiến ngài không thể tập trung. Ngài đã nỗ lực tinh tấn, và do đi kinh hành thiền định, chân ngài bị lở loét đau đớn. Nhưng ngài không đạt được chứng đắc nào và tràn ngập tuyệt vọng. Đức Phật thấy vậy nên đã đến thăm ngài, và bằng cách thuyết giảng cho ngài bài Kinh Vīnūpamovāda (xem Sona Sutta), ngài đã học được cách điều hòa năng lượng bằng sự tĩnh lặng. Được điều chỉnh như vậy, ngài đã nỗ lực tinh tấn và chứng đắc quả vị A-la-hán (Thag.vss.632).

Luật tạng (i.179ff) ghi lại chi tiết chuyến viếng thăm của Sona đến Bimbisāra. Nhà vua, vì tò mò muốn xem chân của Sona, đã sai người đi tìm ông. Ông cùng tám mươi ngàn tùy tùng đến yết kiến ​​Đức Phật, và ở đó, họ vô cùng cảm kích trước thần thông của Sāgata. Sau đó, Sona tìm đến Đức Phật một mình và gia nhập Tăng đoàn. Sau khi xuất gia, ông đi kinh hành, chân ông chảy máu, và cankamana của ông đầy máu "giống như lò sát sinh dành cho bò". Sau khi Sona đắc quả A-la-hán, Đức Phật cho phép ông mang giày chỉ có một lớp lót. Sona nói rằng ông đã từ bỏ tám mươi xe vàng và đoàn tùy tùng bảy con voi. Là một nhà sư, ông không muốn sở hữu bất kỳ vật xa xỉ nào mà các đồng tu không được chia sẻ. Đức Phật sau đó cho phép tất cả các nhà sư mang giày chỉ có một lớp lót.

Vào thời Đức Phật Anomadassī, ông là một setthi rất giàu có, và sau khi cùng những người khác đến vihāra và nghe Đức Phật thuyết giảng, ông đã trang trí một cankamana cho Đức Phật và một sảnh dài (dīghasālā) cho các nhà sư. Trên cankamana, ông rải nhiều loại hoa khác nhau và treo những chiếc lọng phía trên. Vào thời Đức Phật Padumuttara, ông là một setthi của Hamsavatī tên là Sirivaddha. Chính lúc đó, ông quyết tâm giành được sự nổi bật là người đứng đầu trong số những người phấn đấu hết mình (aggam āraddhaviriyānan), và ông đã thành công trong việc này (Ai24). Sau khi Đức Phật Kassapa băng hà, Sona là một gia chủ ở Benares và đã xây dựng một túp lều bên bờ sông cho một vị Phật Độc Giác, người mà ông chăm sóc trong mùa mưa. Ông là vua của các vị thần trong hai mươi lăm kiếp và bảy mươi bảy lần làm vua giữa loài người dưới tên Yasodhara. ThagA.i.544f.; so sánh với Ap.i.93f., nơi ông được gọi là Koliyavessa. ApA. đã nhầm lẫn câu chuyện của ông với câu chuyện của Kutikanna; xem thêm AA.i.130f., nơi các chi tiết khác nhau, đặc biệt là về sự tôn kính mà Sona dành cho Đức Phật Độc Giác. Một lần, khi đến thăm tịnh thất của Đức Phật Độc Giác, ông nhận thấy mặt đất bên ngoài lầy lội; vì vậy, ông đã trải xuống đất một tấm thảm trị giá một trăm ngàn, để chân Đức Phật Độc Giác không bị vấy bẩn.

Kinh Apadāna (Ap.i.298) có đề cập đến một vị trưởng lão tên là Sona Kotivīsa, rõ ràng giống hệt với vị trên, lý do được đưa ra cho cái tên này là vì ông đã bố thí tài sản trị giá hai mươi crore (vīsa koti). Sự cao quý của ông được cho là do vào thời Đức Phật Vipassī, ông đã xây một hang động (lena) cho Đức Phật và các tăng chúng của Ngài và trải thảm lên đó. Buddhaghosa (AA.i.130) đưa ra một biến thể của tên ông, gọi ông là Kotivessa, và giải thích rằng ông thuộc một gia đình vessa (thương gia) có tài sản trị giá một crore.

Kinh Sona (So sánh AA.ii.680, nơi ông được mô tả là gandhabbasippe cheko) đề cập rằng Sona là một người khéo léo trong việc thực hành vina trước khi gia nhập Tăng đoàn. Chính tấm gương của Sona Kolivisa đã thúc đẩy Nandaka và anh trai ông, Bharata, xuất gia. ThagA.i.299.

ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA – đệ nhất về hạnh tinh tấn chuyên cần ( nước da màu vàng đỏ)

ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA

Nguyện vọng trong quá khứ

Vị hiền nhân, Đại trưởng lão Soṇa Koḷivisa tương lai, đã sanh trong gia đình của các trưởng giả trong thời kỳ của Đức Phật Padumuttara, tên là Sirivaḍḍha. Khi Sirivaḍḍha đến tuổi trưởng thành, như những vị trưởng lão thuở xưa đã từng phát nguyện, vị ấy đi đến tịnh xá và đứng ở cuối của hội chúng nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi thấy Đức Phật ban danh hiệu etadagga cho một vị tỳ khưu nọ, là người tinh tấn bậc nhất (āraddha-vīriya), vị ấy động tâm, khi tự nhủ: “ Ta cũng nên trở thành người giống như vị tỳ khưu này trong tương lai!” Khi thời pháp đã mãn, vị ấy thỉnh mời Đức Phật và tổ chức đại thí (mahā-dāna) trong bảy ngày và phát nguyện y như những vị

trưởng lão trước kia từng làm. Khi thấy sự thành tựu trong ước nguyện của vị thiện nam, Đức Phật bèn nói lời tiên tri và trở về tịnh xá.

Kiếp sanh làm cư dân của kinh thành Bārāṇasī

Sau khi làm nhiều thiện nghiệp đến hết cuộc đời, Sirivaḍḍha chỉ luân hồi trong hai cõi, chư thiên và nhân loại. Một trăm ngàn đại kiếp trôi qua, tức là khi Đức Phật Kassapa đã nhập Parinibbāna trong hiền kiếp (bhadda) này. Trước khi Đức Phật của chúng ta xuất hiện, Sirivaḍḍha sanh vào trong một gia đình có đạo đức. Một hôm nọ, cậu ta đang chơi dưới nước với bạn bè ở sông Hằng (Gaṇgā), vị Phật Độc giác (Paccekabuddha) xuất hiện.

Vị Paccekabuddha, khoác chiếc y cũ kỹ, nghĩ rằng: “Sau khi dựng lên một chỗ ngụ ở bên bờ sông Hằng, Ta sẽ nhập hạ và đi khất thực trong kinh thành Bārāṇasī.” Ngài đã gom những cây sào và cây sậy do dòng nước đưa đến. Nhân đó, Sirivaḍḍha cùng với bạn bè đi đến vị Paccekabuddha, đảnh lễ Ngài và hỏi rằng: “ Bạch đại đức, Ngài đang làm gì thế.” “ Này cậu,” vị Phật Độc giác đáp lại, “ Vì mùa an cư (vassa) đang đến gần, vị Sa-môn cần phải có một chỗ trú ngụ.”

Khi ấy Sirivaḍḍha nói rằng: “ Bạch đại đức, xin hãy chờ một ngày. Ngày mai chúng con sẽ xây dựng một chỗ ngụ và dâng nó đến Ngài.” Ngài tự nhủ, “ Ta sẽ ban đặc ân đến chàng trai hiền đức này,” đây là mục đích chính về chuyến viếng thăm của Đức Phật Độc giác, Ngài nhận lời thỉnh cầu của chàng trai. Sau khi biết vị Paccekabuddha nhận lời, Sirivaḍḍha trở về nhà. Ngày hôm sau, chàng trai sửa soạn tất cả các lễ vật cúng dường và đứng chờ vị Paccekabuddha đến. Ngài dò xét xem nên đi khất thực ở đâu và biết được ý định của chàng thanh niên, ngài đi đến cổng nhà của cậu.

Khi nhìn thấy vị Paccekabuddha đi đến, Sirivaḍḍha rất hoan hỉ, thỉnh lấy bát của Ngài và đặt vật thực vào. Cậu ta nói lời thỉnh cầu: “ Xin hãy đến nhà của con để khất thực trong ba tháng an cư này.” Sau khi Ngài nhận lời và ra đi, chàng trai và bạn bè đã bắt tay dựng một

chỗ ngụ có đường kinh hành, những chỗ nghỉ ngơi dành cho ban ngày

và ban đêm rồi dâng cúng đến Đức Phật.

Điều đặc biệt về Sirivaḍḍha này là: Khi Đức Phật Độc giác đi vào chỗ ngụ thì chàng trai có ý nghĩ là không để cho bàn chân của Đức Phật dính bùn trên nền đất trét bằng phân bò ướt, nên đã trải chiếc áo choàng màu đỏ mà cậu ta từng mặc có giá trị một trăm ngàn đồng tiền vàng. Khi trông thấy màu của chiếc áo choàng đỏ và màu nơi thân của Đức Phật Độc giác y như một, cậu ta rất hoan hỉ, thế nên nói rằng: “ Cũng như chiếc áo choàng này của con đã trở nên xinh đẹp hơn từ khi Ngài bước chân lên, cũng vậy cầu xin cho màu của đôi bàn tay và đôi bàn chân của con cũng đỏ và xinh đẹp như màu của hoa dâm bụt! Xin cho sự xúc chạm trên thân của con giống như vải len được làm mịn một trăm lần!”

Chàng trai phục vụ vị Paccekabuddha suốt ba tháng mùa an cư. Khi Ngài làm lễ tự tứ vào cuối của mùa an cư, chàng trai dâng đến ngài ba xấp vải may y. Đầy đủ y bát, vị Paccekabuddha trở về ngọn núi Gandhamādāna.

Đời sống xuất gia trong kiếp chót

Không bị sanh vào trong bốn khổ cảnh, vị thiện nam luân hồi trong hai cõi, chư thiên và nhân loại, và kiếp cuối thọ sanh trong gia đình trưởng giả Usabha, kinh thành Kāḷacampā trong thời kỳ Đức Phật của chúng ta. Từ lúc vị ấy nhập thai, hằng ngàn món quà biếu được gởi đến nhà của người trưởng giả. Vào ngày sanh của vị thiện nam cũng vậy, toàn thể kinh thành Kāḷacampā cũng tràn ngập quà biếu và lễ vật cúng dường. Vào ngày đặt tên, cha mẹ của vị thiện nam nói rằng: “ Con trai của chúng ta đem lại cái tên cho chính nó. Nước da của nó giống như vật được tắm trong nước có màu vàng đỏ,” và gọi là cậu bé Soṇa hay Soṇa, con trai của vị trưởng giả. (Tên chỉ là Soṇa. Nhưng vì cậu ta thuộc dòng họ Koḷivisa, nên người ta gọi cậu là Soṇa Koḷivisa.) Khi ấy có sáu mươi vú nuôi được chỉ định phục vụ cậu con trai, người được nuôi dưỡng trong sung sướng như một vị thiên.

Vật thực được chuẩn bị cho Soṇa

Sau đây là cách mà thực phẩm dành cho Soṇa được chuẩn bị: Trước hết một mảnh ruộng rộng 60 pai (đơn vị của Myanmar)

được cày xới và lúa Sāli được gieo xuống bằng (1) sữa bò, (2) nước hoa và (3) nước tự nhiên.

Tại thửa ruộng, sữa bò và nước hoa được đổ vào qua cái máng từ những cái bình lớn. Khi thân cây thấm chất sữa, để bảo vệ tránh chim chóc và côn trùng, và để làm cho cây trồng được mềm, những cái cột được trồng trong đám ruộng, giữa hai cái sào đều có chừa khoảng trống. Ở trên những cái sào có giàn cây được che bằng những tấm chiếu. Những bức màng được dựng lên để làm vật che và đội bảo vệ được đặt gác ở bốn góc.

Khi vụ mùa đã chín, những vựa thóc được sửa lại bằng cách trét lên chúng bốn loại chất trét (đó là bột nghệ, bột đinh hương, bột cây đỗ quyên và bột của cây kakkū). Không gian được làm cho thơm ngát bằng cách đắp bột trét quí báu. Chỉ những người làm công việc trồng trọt mới mới đi xuống đồng ruộng và thu hoạch vụ mùa cẩn thận, buộc chúng bằng những sợi dây và phơi khô chúng. Một lớp bột trét được trét trên nền của những kho thóc; những bó lúa khô được trải trên nền đã trét bột thơm. Rồi những cánh cửa được đóng lại và lúa được cất giữ trong ba năm.

Sau ba năm những cánh cửa của những kho thóc được mở ra.

Toàn thể kinh thành Campā lúc bấy giờ tràn ngập mùi thơm.

Khi lúa Sāli được giã, những người nghiền rượu chạy đến để mua vỏ trấu và cám. Còn gạo bể thì được những người hầu và người làm công đem về ăn. Chỉ những hạt gạo nguyên vẹn được để riêng dành cho con trai của vị trưởng giả.

Cách nấu cơm như sau: những hạt gạo nguyên được bỏ vào trong cái rỗ được làm bằng những sợi chỉ vàng. Sau khi lược một trăm lần, gạo được ngâm trong nước sôi và (không để lâu), nó được vớt ra. (Vì gạo được nấu chín khi vừa vớt ra khỏi nước) nên những hạt cơm trông giống như những bông hoa lài.

Khi ấy món cơm được bỏ vào trong cái bát bằng vàng được đặt trên cái chén bằng bạc chứa đầy món cơm sữa ngọt, không có nước và được nấu chín hoàn toàn (khiến cho món cơm nóng hổi). Món cơm khi ấy được dọn ra trước cho Soṇa.

Đứa con trai của vị trưởng giả, là Soṇa-Koḷivisa, dùng món cơm Sāli một cách vừa phải. Cậu rửa miệng, tay và chân bằng nước thơm. Rồi người ta đem đến cho cậu ta tất cả các loại cau trầu và những thứ khác để làm thơm miệng.

Bất cứ nơi nào cậu ta đi đến, thì những tấm thảm mịn và xinh đẹp được trải ra. Lòng bàn tay và gót chân của vị ấy có màu đỏ như màu của hoa dâm bụt. Thân xúc của cậu ta rất mềm như vải len được chải một trăm lần. Hai lòng bàn chân được bao phủ một lớp lông mềm. Khi giận ai, cậu ta thường nói lời đe dọa: “ Ngươi hãy suy nghĩ cẩn thận về điều đó! Hay ta sẽ dậm hai bàn chân của ta xuống đất.” Khi đến tuổi trưởng thành, ba cung điện được xây dựng cho cậu (như trường hợp của Yasa, con trai vị trưởng giả), mỗi cung điện thích hợp với từng mùa. Cậu ta cũng được cha mẹ cho những vũ nữ đến hầu hạ múa hát. Vui thích trong dục lạc, người con trai giàu sang sống cuộc đời hạnh phúc như chư thiên.

Lúc bấy giờ, Đức Phật của chúng ta đã thành đạo và thuyết giảng bài kinh Chuyển pháp luân, lúc bấy giờ Ngài đang sống và đi khất thực ở trong thành Rājagaha. Trong thời gian đó, vị minh quân Bimbisāra (Bình-sa-vương) triệu tập Soṇa và cử cậu ta, cùng với tám chục ngàn vị trưởng thôn đi đến Đức Phật. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, vị ấy phát khởi niềm tin mạnh mẽ nên vị ấy đã xin phép Đức Phật cho xuất gia.

Đức Phật hỏi vị ấy là đã được sự xin phép cha mẹ chưa. Khi vị ấy trả lời chưa, thì Đức Phật từ chối nói rằng: “ Này con Soṇa, chư Phật không xuất gia cho ai chưa được cha mẹ cho phép.” “ Lành thay, bạch Thế Tôn,” Soṇa trả lời và vâng lời Đức Phật, vị ấy về gặp cha mẹ và xin phép họ xuất gia rồi trở lại. Theo chỉ thị của Đức Phật, vị ấy được truyền phép xuất gia bởi một vị tỳ khưu. ( Đây là bài mô tả tóm

tắt. Bài mô tả chi tiết ở trong bản dịch về Cammakkhandhaka của bộ Vinaya Mahāmagga.)

Khi sống ở trong kinh thành Rājagaha, sau khi xuất gia, quyến thuộc và bạn bè đã hết lòng cúng dường vị ấy để tỏ lòng tôn kính. Họ nói nhiều lời tán dương nhân cách xinh đẹp của vị ấy. Vì thế, Soṇa khởi lên ý nghĩ: “ Quá nhiều người đến với ta. Nếu họ cứ tiếp tục đến với ta, thì làm sao ta có thể chuyên tâm vào thiền chỉ và thiền quán? Ta sẽ không còn có thể hành đạo được nữa. Nếu sau nghe bài pháp về thiền từ Đức Phật, ta đi đến bãi tha ma ở khu rừng Sītavana và nỗ lực hành đạo thì sao! Mọi người sẽ không đi đến đó, vì họ ghê tởm bãi tha ma. Khi ấy việc thực hành pháp Sa-môn của ta sẽ đạt đến đỉnh cao, là đạo quả A-la-hán.” Do đó, sau khi nghe giảng pháp thiền từ Đức Phật, vị ấy đi đến khu rừng Sītavana, tại đó vị khởi tâm tinh tấn hành đạo.

Sự chuyên tâm nỗ lực

“ Thân của ta rất tinh tế,” trưởng lão Soṇa suy nghĩ, “ thực ra, ta không phải là người có thể đạt được hạnh phúc của Đạo và Quả một cách dễ dàng. Do đó ta nên nỗ lực tinh tấn bất chấp mệt mõi.” Nghĩ vậy vị ấy chuyên tâm hành thiền chỉ bằng hai oai nghi là đi và đứng (hoàn toàn không nằm và ngồi). Rồi những vết sưng xuất hiện ở mép của bàn chân và toàn con đường kinh hành lấm lem vết máu vì những chỗ sưng tấy bị vỡ ra. Khi vị ấy không thể đi bằng chân, vị ấy thực hành bằng cách bò trên hai đầu gối và cùi chỏ làm chúng cũng bị trầy xước khiến cho con đường kinh hành thấm màu đỏ nhiều hơn. Dù nỗ lực tinh tấn như thế, nhưng vị ấy không thấy được dấu hiệu có kết quả tích cực của pháp thiền. Do đó vị ấy nuôi dưỡng ý nghĩ như sau:

“ Nếu có ai khác mà nỗ lực tinh tấn, thì người đó cũng làm như ta thôi, chứ không thể nào hơn thế. Dầu ta đã nỗ lực tinh tấn hết mình nhưng ta không thể chứng Đạo và Quả. Có lẽ ta không thực sự thuộc hạng Lượt khai trí giả (ugghaṭitaññū), Quảng viễn trí giả (vipañcitaññū) hay Sở dẫn đạo giả (neyya). Có lẽ ta chỉ là một Văn cú vi tối giả (padaparama). Theo đúng nghĩa thì có lợi ích gì trong đời

sống Sa-môn. Như vậy, chẳng có lợi ích gì trong đời sống Sa-môn. Chắc có lẽ không có. Ta sẽ hoàn tục. Ta sẽ hưởng những lạc thú của thế gian và (trong khi làm như vậy) ta sẽ làm những việc phước.”

Sự sách tấn của Đức Phật : ví dụ của cây đàn

Khi biết được ý nghĩ của trưởng lão, Đức Phật cùng với chúng Tăng đi đến Soṇa vào lúc chiều tối, và khi thấy con đường kinh hành có màu đỏ, Ngài hỏi rằng: “ Này các tỳ khưu, con đường kinh hành của ai mà đỏ như lò mổ thế này?” (dù Ngài biết rõ nhưng Ngài vẫn hỏi với mục đích để thuyết một bài pháp). Các tỳ khưu đáp lại: “Bạch Thế Tôn, hai lòng bàn chân của đại đức Soṇa, người đã dốc quá nhiều tinh tấn đi kinh hành trong lúc hành thiền, nên đã bị sưng tấy. Con đường kinh hành giờ đây có màu đỏ như lò mổ do vị tỳ khưu Soṇa tạo ra.” Đức Phật đi đến chỗ hành thiền của trưởng lão Soṇa và ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được soạn sẵn.

Trưởng lão Soṇa đi đến và đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi xuống ở một nơi phải lẽ. Khi Đức Phật hỏi vị ấy xem là vị ấy có thật đã nuôi dưỡng ý định hoàn tục, trưởng lão Soṇa thú nhận là có thật như vậy. Sau đó Đức Phật thuyết một bài pháp, đề tài cây đàn (vīnovāda), những sợi dây của cây đàn phải được điều chỉnh không quá chùn cũng không quá căng.

Đức Phật: Này con, con nghĩ như thế nào về câu hỏi mà Như Lai sắp hỏi đây? Con có thể trả lời nếu con thích. Con vốn thông minh trong việc chơi đàn trước kia khi còn là cư sĩ.

Soṇa: Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

(Ở đây, khi đại đức Soṇa còn nhỏ thì cha mẹ nghĩ rằng: “ Nếu Soṇa học bất cứ nghệ thuật nào khác thì nó sẽ mệt mỏi. Nhưng chơi đàn thì có thể học được trong khi đang ngồi thoải mái ở một chỗ.” Bởi vậy họ cho cậu bé học đàn và trở thành một người chơi đàn thành thạo.

(Đức Phật biết rằng: “Những hình thức tu thiền khác không thể đem lại lợi ích cho tỳ khưu Soṇa này. Trong khi còn làm cư sĩ, vị ấy

chơi đàn thành thạo. Vị ấy sẽ nhanh chóng đạt được trí tuệ nếu Ta giảng liên quan đến môn nghệ thuật ấy.” Do đó, sau khi hỏi trưởng lão Soṇa như đã giải thích ở trên, Đức Phật bắt đầu bài pháp).

Đức Phật: Này con Soṇa, con nghĩ như thế nào về câu hỏi mà Như Lai sắp hỏi đây? Giả sử như những sợi dây đàn của con quá căng thì cây đàn của con có thể tạo ra âm thanh khả ái không? Nó có ngân dài không?

Soṇa: Bạch Thế Tôn, không thể được. Nó sẽ không tạo ra âm thanh khả ái cũng không ngân dài.

Đức Phật: Này con Soṇa, con nghĩ như thế nào về câu hỏi mà Như Lai sắp hỏi đây? Giả sử những sợi dây đàn quá chùn thì cây đàn của con có thể tạo ra âm thanh khả ái không? Nó có ngân dài không?

Soṇa: Bạch Thế Tôn, không thể được. Nó sẽ không tạo ra âm thanh khả ái cũng không ngân dài.

Đức Phật: Này con Soṇa, con nghĩ như thế nào về câu hỏi mà Như Lai sắp hỏi đây? Giả sử những sợi dây đàn không quá căng cũng không quá chùn mà được điều chỉnh chuẩn xác, thì cây đàn của con có thể tạo ra âm thanh khả ái không? Nó có ngân dài không?

Soṇa: Bạch Thế Tôn, có thể được. Nó sẽ tạo ra âm thanh khả ái

và ngân dài.

Đức Phật: Cũng vậy, này con Soṇa, sự nỗ lực tinh tấn quá nhiều sẽ tạo ra phóng dật (uddhacca). Sự tinh tấn quá ít sẽ tạo ra sự giải đãi (kosajja). Do đó này con Soṇa, hãy điều chỉnh tinh tấn (vīriya) và định (samādhi) ngang bằng nhau. Phải biết rằng các căn của con như tín căn cũng phải ở mức quân bình. (Hãy làm cho năm căn như tín căn (saddhā) , tấn căn (vīriya), niệm căn (sati) , định căn (samādhi) và tuệ căn (paññā) đều ở mức quân bình). Khi chúng đã được khéo quân bình, thì hãy cố gắng để có những tướng thanh tịnh, v.v…)

Soṇa: Lành thay, bạch Thế Tôn.

Sau khi đã sách tấn trưởng lão Soṇa bằng cách đưa ra ví dụ về sự chơi đàn và sau khi đã dạy cho vị ấy sự hành thiền liên quan đến sự quân bình tinh tấn và thiền định, Đức Phật trở về tịnh xá trên ngọn đồi Gijhakūṭa (Kỳ xà quật).

Sự hoạch đắc danh hiệu Etadagga

Sau khi xem lại cách hành thiền của trưởng lão Soṇa Koḷovisa, thì sự thật tự nó hiển thị rằng, trong khi sự tinh tấn của những tỳ khưu khác phải được gia tăng (vì nó quá thiếu), thì sự tinh tấn của trưởng lão phải được giảm bớt (vì nó quá nhiều). Do đó, một thời gian sau, Đức Phật tán dương và ban cho vị ấy danh hiệu Đệ nhất tinh tấn (āraddha-vīraya):

Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ āraddha-vīriyānaṃ yadidaṃ Soṇa Koḷiviso.

Này các tỳ khưu, trong số các đệ tử của Như Lai có sự tinh tấn, thì Soṇa thuộc dòng họ Koḷivisa là Đệ nhất.

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state