Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI– đệ nhất về tín thắng giải
Trưởng lão Vakkali là một thiện nam trong thời Đức Phật Padumuttara. Giống như trường hợp của những vị đại trưởng lão khác, vị ấy đi đến tịnh xá của Đức Phật, ngồi ở mé ngoài của thính chúng và trong khi lắng nghe Đức Phật giảng pháp, vị ấy trông thấy một vị tỳ khưu được Đức Phật tôn vinh bằng danh hiệu etadagga trong số những vị tỳ khưu có lòng tịnh tín với Đức Phật. Vị ấy khởi ước muốn tha thiết được tôn vinh bằng danh hiệu tương tự bởi một vị Phật tương lai nào đó. Vị ấy thỉnh Đức Phật đến nhà và tổ chức cúng dường to lớn trong bảy ngày. Rồi bày tỏ ước nguyện trước Đức Phật: “ Bạch Thế Tôn, do quả phước này, cầu xin cho con được một vị Phật tương lai công bố là đệ nhất trong số những vị tỳ khưu có lòng tịnh tín với Đức Phật. Đức Phật thấy rằng nguyện vọng của vị thiện nam sẽ được thành tựu nên tiên tri vị ấy được thành tựu rồi trở về tịnh xá.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:528

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI– đệ nhất về tín thắng giải

ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI– đệ nhất về tín thắng giải


1. Vakkali Thera. He belonged to a brahmin family of Sāvatthi and became proficient in the three Vedas. After he once saw the Buddha he could never tire of looking at him, and followed him about. In order to be closer to him he became a monk, and spent all his time, apart from meals and bathing, in contemplating the Buddha's person. One day the Buddha said to him, "The sight of my foul body is useless; he who sees the Dhamma, he it is that seeth me" (yo kho dhammam passati so mam passati; yo mam passati so dhammam passati) (Cp. Itv. sec. 92). But even then Vakkali would not leave the Buddha till, on the last day of the rains, the Buddha commanded him to depart. Greatly grieved, Vakkali sought the precipices of Gijjhakūta. The Buddha, aware of this, appeared before him and uttered a stanza; then stretching out his hand, he said: "Come, monk." Filled with joy, Vakkali rose in the air pondering on the Buddha's words and realized arahantship. AA.i.140f.; the Apadāna account (Ap.ii.465f.) is similar. It says that the Buddha spoke to him from the foot of the rock. Vakkali jumped down to meet the Buddha, a depth of many cubits, but he alighted unhurt. It was on this occasion that the Buddha declared his eminence among those of implicit faith; also DhA.iv.118f. The DhA. reports three verses uttered by the Buddha in which he assures Vakkali that he will help him and look after him.

According to the Theragāthā, Commentary (ThagA.i.420), when Vakkali was dismissed by the Buddha he lived on Gijjhakūta, practising meditation, but could not attain insight because of his emotional nature (saddhā). The Buddha then gave him a special exercise, but neither could he achieve this, and, from lack of food, he suffered from cramp. The Buddha visited him and uttered a verse to encourage him. Vakkali spoke four verses (Thag.350 4) in reply, and, conjuring up insight, won arahantship. Later, in the assembly of the monks, the Buddha declared him foremost among those of implicit faith (saddhādhimuttānam) (cp. A.i.25; also Dvy.49 and VibhA.276; Vsm.i.129). In the Pārāyanavagga (SN. vs. 1146) the Buddha is represented as holding Vakkali up to Pingiya as an example of one who won emancipation through faith.

The Samyutta account (S.iii.119ff.; SA.ii.229) gives more details and differs in some respects from the above. There, Vakkali fell ill while on his way to visit the Buddha at Rājagaha, and was carried in a litter to a potter's shed in Rājagaha. There, at his request, the Buddha visited him and comforted him. He questioned Vakkali, who assured him that he had no cause to reprove himself with regard to morals (sīlato); his only worry was that he had not been able to see the Buddha earlier. The Buddha told him that seeing the Dhamma was equivalent to seeing him, and because Vakkali had realized the Dhamma, there would be no hereafter for him. After the Buddha had left, Vakkali asked his attendants to take him to Kālasilā on Isigili. The Buddha was on Gijjhakūta and was told by two devas that Vakkali was about to "obtain release." The Buddha sent word to him: "Fear not, Vakkali, your dying will not be evil." Vakkali rose from his bed to receive the Buddha's message, and sending word to the Buddha that he had no desire or love for the body or the other khandhas, he drew a knife and killed himself. The Buddha went to see his body, and declared that he had obtained Nibbāna and that Māra's attempt to find the consciousness of Vakkali would prove useless.

The Commentary adds that Vakkali was conceited and blind to his remaining faults. He thought he was a khīnāsava, and that he might rid himself of bodily pains by death. However, the stab with the knife caused him such pain that at the moment of dying he realized his puthujjana state, and, putting forth great effort, attained arahantship.

His resolve to become chief among the saddhādhimuttas had been made in the time of Padumuttara Buddha, when he saw a monk also named Vakkali similarly honoured by the Buddha. Ap.ii.465f.; AA.i.140.


1. Vakkali Thera. Ngài xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn ở Sāvatthi và thông thạo ba bộ kinh Vệ Đà. Sau khi gặp Đức Phật, ngài không bao giờ chán ngắm nhìn Ngài và đi theo Ngài khắp nơi. Để được gần gũi Ngài hơn, ngài xuất gia và dành toàn bộ thời gian, ngoài giờ ăn uống và tắm rửa, để chiêm nghiệm về Đức Phật. Một hôm, Đức Phật nói với ngài: "Nhìn thấy thân xác ô uế của ta là vô ích; ai thấy được Pháp, chính là thấy được ta" (yo kho dhammam passati so mam passati; yo mam passati so dhammam passati) (so sánh Itv. sec. 92). Nhưng ngay cả như vậy, Vakkali vẫn không chịu rời khỏi Đức Phật cho đến ngày cuối cùng của mùa mưa, Đức Phật ra lệnh cho ngài rời đi. Vô cùng đau buồn, Vakkali tìm đến vách đá Gijjhakūta. Đức Phật, biết được điều này, đã hiện ra trước mặt ngài và đọc một bài kệ; Rồi Ngài đưa tay ra và nói: "Này Tỷ-kheo, hãy đến đây." Tràn đầy niềm vui, Vakkali bay lên không trung, suy ngẫm về lời dạy của Đức Phật và chứng đắc quả A-la-hán. AA.i.140f.; bản tường thuật của Apadāna (Ap.ii.465f.) cũng tương tự. Bản tường thuật kể rằng Đức Phật đã nói chuyện với ông từ chân tảng đá. Vakkali nhảy xuống gặp Đức Phật, ở độ sâu hàng trăm thước, nhưng ông đáp xuống mà không hề hấn gì. Chính trong dịp này, Đức Phật đã tuyên bố sự cao quý của mình giữa những người có đức tin tuyệt đối; cũng như DhA.iv.118f. DhA. ghi lại ba bài kệ do Đức Phật đọc, trong đó Ngài cam kết với Vakkali rằng Ngài sẽ giúp đỡ và chăm sóc ông.

Theo Theragāthā, Commentary (ThagA.i.420), khi Vakkali bị Đức Phật đuổi đi, ông sống ở Gijjhakūta, thực hành thiền định, nhưng không thể đạt được tuệ giác do bản chất cảm xúc (saddhā) của mình. Sau đó, Đức Phật đã ban cho ông một bài tập đặc biệt, nhưng ông cũng không thể đạt được điều này, và vì thiếu thức ăn, ông bị chuột rút. Đức Phật đã đến thăm ông và đọc một bài kệ để khuyến khích ông. Vakkali đã đọc bốn bài kệ (Thag.350 4) để trả lời, và, nhờ sự sáng suốt, ông đã chứng đắc quả vị A-la-hán. Sau đó, trong hội chúng của các vị tỳ kheo, Đức Phật tuyên bố ông là người đứng đầu trong số những người có đức tin tuyệt đối (saddhādhimuttānam) (so sánh Ai25; cũng như Dvy.49 và VibhA.276; Vsm.i.129). Trong Pārāyanavagga (SN. vs. 1146), Đức Phật được miêu tả là đã đưa Vakkali lên Pingiya như một tấm gương về người đạt được sự giải thoát thông qua đức tin.

Bản tường thuật Tương Ưng (S.iii.119ff.; SA.ii.229) cung cấp nhiều chi tiết hơn và có một số điểm khác biệt so với bản trên. Tại đây, Vakkali bị bệnh trên đường đến yết kiến ​​Đức Phật tại Rājagaha, và được khiêng bằng cáng đến một xưởng gốm ở Rājagaha. Tại đây, theo lời thỉnh cầu của Vakkali, Đức Phật đã đến thăm và an ủi ông. Ngài đã chất vấn Vakkali, và Vakkali khẳng định rằng ông không có lý do gì để tự trách mình về vấn đề giới luật (sīlato); điều duy nhất khiến ông lo lắng là trước đó ông đã không được gặp Đức Phật. Đức Phật nói với Vakkali rằng việc thấy Giáo Pháp cũng tương đương với việc thấy Ngài, và vì Vakkali đã chứng ngộ Giáo Pháp, nên ông sẽ không có kiếp sau. Sau khi Đức Phật rời đi, Vakkali yêu cầu thị giả đưa ông đến Kālasilā trên Isigili. Đức Phật đang ở Gijjhakūta và được hai vị thiên thần báo tin rằng Vakkali sắp "được giải thoát". Đức Phật nhắn nhủ ông: "Vakkali, đừng sợ, cái chết của con sẽ không phải là điều xấu." Vakkali rời khỏi giường để nhận được lời nhắn của Đức Phật, và nhắn nhủ với Đức Phật rằng ông không còn ham muốn hay yêu thương thân xác hay các uẩn khác, ông rút dao tự tử. Đức Phật đến xem thi thể ông và tuyên bố rằng ông đã chứng đắc Niết Bàn, và mọi nỗ lực của Ma Vương nhằm tìm kiếm ý thức của Vakkali sẽ vô ích.

Chú giải nói thêm rằng Vakkali đã tự phụ và mù quáng trước những lỗi lầm còn lại của mình. Ông nghĩ mình là một khīnāsava (khīnāsava) và có thể thoát khỏi đau đớn thể xác bằng cái chết. Tuy nhiên, nhát dao đâm ông đau đớn đến nỗi vào lúc lâm chung, ông chứng ngộ trạng thái phàm phu (puthujjana) của mình, và nhờ tinh tấn mạnh mẽ, ông đã đắc quả A-la-hán.

Quyết tâm trở thành người đứng đầu trong số các saddhādhimuttas của ngài đã được hình thành vào thời Đức Phật Padumuttara, khi ngài thấy một nhà sư cũng tên là Vakkali cũng được Đức Phật tôn vinh như vậy. Ap.ii.465f.; AA.i.140.

ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI– đệ nhất về tín thắng giải

ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI

Nguyện vọng trong quá khứ

Trưởng lão Vakkali là một thiện nam trong thời Đức Phật Padumuttara. Giống như trường hợp của những vị đại trưởng lão khác, vị ấy đi đến tịnh xá của Đức Phật, ngồi ở mé ngoài của thính chúng và trong khi lắng nghe Đức Phật giảng pháp, vị ấy trông thấy một vị tỳ khưu được Đức Phật tôn vinh bằng danh hiệu etadagga trong số những vị tỳ khưu có lòng tịnh tín với Đức Phật. Vị ấy khởi ước muốn tha thiết được tôn vinh bằng danh hiệu tương tự bởi một vị Phật tương lai nào đó. Vị ấy thỉnh Đức Phật đến nhà và tổ chức cúng dường to lớn trong bảy ngày. Rồi bày tỏ ước nguyện trước Đức Phật: “ Bạch Thế Tôn, do quả phước này, cầu xin cho con được một vị Phật tương lai công bố là đệ nhất trong số những vị tỳ khưu có lòng tịnh tín với Đức Phật. Đức Phật thấy rằng nguyện vọng của vị thiện nam sẽ được thành tựu nên tiên tri vị ấy được thành tựu rồi trở về tịnh xá.

Đời sống Sa-môn trong kiếp chót

Con người xứng đáng ấy đã cống hiến đời mình làm những thiện nghiệp đến hết cuộc đời. Khi ông ta mạng chung từ kiếp ấy ông ta chỉ sanh vào những cõi an vui, và trong thời của Đức Phật Gotama ông ta tái sanh vào một gia đình Bà-la-môn, tại thành Sāvatthi và được cha mẹ đặt tên là Vakkali.

Khi lớn lên, cậu học bộ Tam Phệ đà. Một hôm cậu ta trông thấy Đức Phật được tháp tùng bởi nhiều vị tỳ khưu đang đi khất thực trong thành Sāvatthi. Cậu ta bị say đắm bởi vẻ rực rỡ nơi thân của Đức Phật đến nỗi cậu theo đường đi của Đức Phật rồi vào tịnh xá cùng với các tỳ khưu. Ở đó cậu nhìn chăm chăm vào sắc thân của Đức Phật. Khi Đức Phật thuyết pháp cậu ngồi ngay trước mặt Ngài.

Sự tha thiết của Vakkali trở nên sâu đậm đến nỗi cậu không thể xa rời Đức Phật bất cứ lúc nào. Do đó cậu ta quyết định rằng cậu sẽ không sống cuộc đời gia chủ, vì làm gia chủ thì cậu ta sẽ không thể nhìn thấy Đức Phật suốt ngày; chỉ khi nào làm tỳ khưu vị ấy mới có được cơ hội như vậy. Thế nên, cậu đi đến Đức Phật và thỉnh cầu Ngài cho phép được gia nhập vào Tăng chúng. Khi ấy cậu được chấp thuận.

Là tỳ khưu, trưởng giả Vakkali không bao giờ bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm Đức Phật trừ khi độ thực. Vị ấy không làm gì trong phận sự của vị tỳ khưu dù là pháp học hay hành thiền, chỉ trải qua tất cả thời gian để nhìn ngắm Đức Phật. Đức Phật biết rằng thời gian để Vakkali giác ngộ chưa đến và do đó Ngài chẳng nói gì về việc lơ đễnh phận sự của vị ấy. Khi thời gian phải lẽ đã đến, Đức Phật nói với trưởng giả Vakkali rằng:

“ Này Vakkali, ngươi nhìn ngắm nơi tấm thân thối tha này của Như Lai có lợi ích gì? Này Vakkali, người nào thấy Pháp mới thực sự thấy Như Lai. Người nào thấy Như Lai là thấy Pháp. Này Vakkali, chỉ người nào chiêm ngưỡng Pháp mới thực sự chiêm ngưỡng Như Lai. Người thực sự muốn chiêm ngưỡng Như Lai phải là người chiêm ngưỡng Pháp.”

Dù Đức Phật đã sách tấn trưởng lão Vakkali bằng những lời này nhưng trưởng lão không thể tách rời khỏi Đức Phật. Đức Phật thấy rằng vị tỳ khưu này cần được thức tỉnh bằng sự động tâm để giác ngộ. Bởi vậy vào một buổi tối trong mùa an cư Đức Phật đi đến thành Rājagaha và Ngài nói với trưởng lão vào ngày bắt đầu mùa an cư: “ Này Vakkali, hãy đi đi! Hãy rời khỏi Như Lai!”

Thật không thể nào chống lại mệnh lệnh mà Đức Phật đưa ra, trưởng lão Vakkali không thể làm gì khác ngoài việc vâng lời. Vị ấy phải xa rời Đức Phật tối thiểu là ba tháng của mùa an cư. Vị ấy không thể làm gì khác về điều ấy. Vị ấy cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. “ Thà chết còn hơn phải xa rời Đức Phật,” vị ấy nuôi dưỡng ý nghĩ như vậy và đi đến núi Gijjakūṭa (Linh thứu), nơi có những vách đá dựng đứng.

Đức Phật nhìn thấy tâm trạng tuyệt vọng của trưởng lão Vakkali. “ Nếu không được sự cứu giúp của ta thì Vakkali ắt sẽ hủy hoại công đức to lớn của vị ấy, mà giờ đây đã tròn đủ để chứng đắc giác ngộ,” Đức Phật suy nghĩ. Do đó, Ngài phát ra những tia hào quang đến Vakkali để vị tỳ khưu ấy có thể thấy con người của Ngài. Hình ảnh của Ngài làm vơi giảm tức thì trái tim đang bốc cháy của trưởng lão, tựa như mũi tên của nỗi buồn thảm đâm xuyên qua tim, thình lình được rút ra.

Sau đó để làm tâm của trưởng giả đầy niềm hoan hỷ và vui mừng, Đức Phật nói lên những câu kệ sau đây:

Pāmojjabahulo bhikkhu, pasanno Buddhasāsane; adhigacche padaṃ, santaṃ saṅkhārūpasamaṃ sukhaṃ.

Do hoan hỉ và đầy niềm tin nơi giáo pháp của Đức Phật bao gồm ba pháp học, vị tỳ khưu sẽ chứng đắc Niết bàn tịch tịnh, sự phúc lạc, sự chấm dứt mọi nhân duyên. ( Dhammapada, IV 381)

(Theo Chú giải của bộ Aṅguttara Nikāya) thì Đức Phật đã đưa tay đến trưởng lão Vakkali và nói: “ Hãy đến, này tỳ khưu.”

Chú giải Dhammapada có thêm vào, sau khi nói câu kệ trên, Đức Phật đưa tay đến trưởng lão Vakkali và nói lên những câu kệ sau đây:

Ehi Vakkali mā bhāyi, olokehi Tathāgataṃ;

Ahaṃ taṃ uddharissāmi, paṅke sannaṃ va kuñjaraṃ.

Hãy đến, này Vakkali, đừng sợ hãi. Hãy nhìn vào Như Lai đây, Như Lai sẽ đưa con lên (đến Niết bàn) khỏi vực sâu của vòng sanh tử không khởi điểm, như người đưa con voi lên khỏi bãi sình.

Ehi Vakkali mā bhāyi, olokehi Tathāgataṃ;

Ahaṃ taṃ mocayissāmi, Rāhuggahaṃ va sūriyaṃ.

Hãy đến, này Vakkali, đừng sợ hãi. Hãy nhìn vào Như Lai. Như Lai sẽ giải thoát con ra khỏi ngục tù của phiền não, như Như Lai từng giải thoát mặt trời ra khỏi sự kềm hãm của Rāhu.

Ehi Vakkali mā bhāyi, olokehi Tathāgataṃ;

Ahaṃ taṃ mocayissāmi Rāhuggahaṃ va candimaṃ.

Hãy đến, này Vakkali, đừng sợ hãi. Hãy nhìn vào Như Lai. Như Lai sẽ giải thoát con ra khỏi sự kềm kẹp của phiền não, như Như Lai từng giải thoát mặt trăng ra khỏi kềm kẹp của Rāhu.

Khi ấy trưởng lão Vakkali tự nhủ: “ Giờ đây ta đang tự thân trông thấy Đức Phật, và Đức Thế Tôn đã đưa bàn tay về phía ta. Ồ, ta rất hoan hỉ! Ta nên đi đâu bây giờ?” Vị ấy đi về hướng Đức Phật, và khi bước chân đầu tiên của vị ấy đang đặt xuống núi, và quán xét những câu kệ được Đức Phật nói ra, và khi tràn đầy sự hoan hỷ qua Tuệ quán (về ba tướng của các pháp hữu vi), vị ấy chứng đắc đạo quả A-la-hán cùng với Tuệ phân tích. Vị ấy đi xuống đất và đứng đảnh lễ Đức Phật.

Sự hoạch đắc danh hiệu etadagga


Vào một dịp, khi ở giữa chúng Tăng, Đức Phật công bố:

Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakāmaṃ bhikkhūnaṃ saddhādhi muttānaṃ yadidaṃ Vakkali.

Này các tỳ khưu, trong số những đệ tử tỳ khưu của Như Lai mà có niềm tin tín thành nơi Đức Phật thì tỳ khưu Vakkali là Đệ nhất.

(Chú ý: Trong trường hợp những vị tỳ khưu khác thì niềm tịnh tín của họ đối với Đức Phật phải được nâng lên. Đối với Vakkali thì niềm tịnh tín của vị ấy quá mạnh mẽ đến nỗi Đức Phật phải hạ thấp nó xuống bằng cách đuổi vị ấy đi khỏi Ngài. Cho nên vị ấy là vị tỳ khưu Đệ nhất trong lãnh vực về niềm tịnh tín đối với Đức Phật.)

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state