Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
HT Thích Duy Lực (1923 -2000) - thiền sư người Hoa chấn hưng thiền tông VN
Thích Duy Lực (釋惟力) (5 tháng 5 năm 1923 - 8 tháng 1 năm 2000), tự Giác Khai (覺開), thế danh[1] La Dũ (羅愈)[2], là một dịch giả, tác giả Phật học, thiền sư người Hoa thuộc dòng Tào Động. Sư được coi là người đã chấn hưng Thiền tông Việt Nam với pháp môn Tham Thoại Đầu vào cuối thế kỷ 20[3]. Qua việc xuất bản cuốn Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền vào năm 1994[4], Sư có lẽ là người đầu tiên ở Việt Nam đưa ra một đường lối thực hành pháp môn Tham Thoại Đầu một cách rõ ràng. Sư còn đi giảng dạy ở khắp nơi trên thế giới vào những năm cuối đời, đặc biệt là ở Mỹ, nơi Sư kiến lập Từ Ân Thiền Đường.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:500

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
HT Thích Duy Lực (1923 -2000) - thiền sư người Hoa chấn hưng thiền tông VN

Thích Duy Lực

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hòa thượng - Thiền sư
Thích Duy Lực
釋惟力

Chân dung Hòa thượng Giác Khai Duy Lực

Pháp tự Giác Khai (覺開)
Pháp hiệu Duy Lực (惟力)
Tôn xưng Đời thứ 89 Thiền tông (từ Ca Diếp)
Đời thứ 52 Tào Động tông
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáo Phật giáo
Trường phái Phật giáo Đại thừa
Tông phái Thiền tông
Dòng Tào Động tông
Môn phái Tham Thoại Đầu
Sư phụ Diệu Duyên Kim Phật
Hòa thượng Hoằng Tu
Xuất gia 8 tháng 2, 1973
Chùa Từ ÂnQuận 11Chợ Lớn
Thụ giới Tam Đàn Cụ Túc
tháng 5, 1974
Chùa Cực Lạc, Malaysia
Trước tác Tổng kết Kinh Sách do Hòa thượng Thích Duy Lực dịch và trước tác (bao gồm file MP3)
Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung Ương GHPGVN
Nhiệm kỳ
1998 – 2000 (viên tịch)
Thông tin cá nhân
Sinh  
Thế danh La Dũ (羅愈)
Ngày sinh 5 tháng 5 năm 1923
Nơi sinh làng Long Tuyền, huyện Bình Thủy, tỉnh Cần ThơNam KỳLiên bang Đông Dương
Mất 1 giờ 30 (UTC+07)
8 tháng 1 năm 2000 (76 tuổi)
Thân quyến  
Cha La Xương (羅昌)
Mẹ Lưu Thị (劉氏)
Dân tộc Người Tiều
Quốc tịch Trung Quốc
Việt Nam
 Cổng thông tin Phật giáo
Một phần của loạt bài về
Thiền sư Việt Nam
Ensō

Sơ khai[hiện]

Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi[hiện]

Thiền phái Vô Ngôn Thông[hiện]

Thiền phái Thảo Đường[hiện]

Thiền phái Trúc Lâm[hiện]

Lâm Tế tông[hiện]

Tào Động tông[hiện]

 Cổng thông tin Phật giáo

Thích Duy Lực (釋惟力) (5 tháng 5 năm 1923 - 8 tháng 1 năm 2000), tự Giác Khai (覺開), thế danh[1] La Dũ (羅愈)[2], là một dịch giảtác giả Phật họcthiền sư người Hoa thuộc dòng Tào Động. Sư được coi là người đã chấn hưng Thiền tông Việt Nam với pháp môn Tham Thoại Đầu vào cuối thế kỷ 20[3]. Qua việc xuất bản cuốn Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền vào năm 1994[4], Sư có lẽ là người đầu tiên ở Việt Nam đưa ra một đường lối thực hành pháp môn Tham Thoại Đầu một cách rõ ràng. Sư còn đi giảng dạy ở khắp nơi trên thế giới vào những năm cuối đời, đặc biệt là ở Mỹ, nơi Sư kiến lập Từ Ân Thiền Đường.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thời thơ ấu[sửa | sửa mã nguồn]

Sư họ La (羅), húy  (愈), pháp tự Giác Khai (覺開), pháp hiệu Duy Lực (惟力)[5], sanh ngày 5 tháng 5 năm Quý Hợi 1923 tại làng Long Tuyền, huyện Bình Thủy, tỉnh Cần Thơ (nay là phường Long Tuyềnquận Bình ThủyTP. Cần Thơ). Cha là La Xương, mẹ là Lưu Thị, làm nghề nông. Năm lên 7 tuổi, theo cha về quê sống tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng ĐôngTrung Quốc. Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 1, Sư phải nghỉ học theo cha trở lại Việt Nam sinh sống, trú tại tỉnh Cần Thơ, lúc đó Sư được 16 tuổi (1938)[2]. Người trong xóm hay gọi Sư là "Nấu không chín", ý nói thằng khờ[6].

Sư thường tranh thủ tự học trong lúc rảnh rỗi. Đến năm 26 tuổi (1948), Sư thi đậu bằng giáo viên Hoa văn, từng cộng tác biên soạn cho tờ báo Viễn Đông tiếng Hoa tại Chợ Lớn và được mời dạy ở các trường tiểu học tỉnh Tà KeoCao Miên (Nay là Campuchia), trường Khải Trí ở Cần Thơ, Trường Cái Vồn ở Vĩnh Long trong thời gian 10 năm. Năm 1958, sau khi thi lấy bằng Đông y sĩ cấp 1, Sư được mời làm đông y sĩ cho tiệm thuốc Tế Ngươn Đường Cà Mau, Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm tỉnh Cần Thơ để khám bệnh miễn phí cho dân trong thời gian 8 năm.[2]

Hòa thượng Duy Lực ngồi thiền[7]

Chính khi làm việc ở đây, nhân duyên với Phật pháp của Sư được có cơ hội phát triển. Trong tủ sách của Cư Sĩ Lâm có bộ Kinh Tục Tạng gồm 150 quyển, Sư định đọc hết toàn bộ, nhưng trải qua một năm chỉ xem được 7 quyển. Nghĩ rằng phải tốn hơn 20 năm để đọc hết bộ, nên sau đó Sư quyết định chỉ đọc phần Thiền tông. Cảm nhận được ý chỉ thiền học ứng hợp với căn cơ của mình, Sư tìm đến Pháp sư Diệu Duyên Kim Phật, trụ trì chùa Thảo Đường ở Chợ Lớn, là vị đã có nhiều năm thân cận thiền sư Lai Quả và thiền sư Hư Vân, để tham học về Tổ Sư Thiền.[2][8]

Thời kỳ xuất gia học đạo[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày mồng 8 tháng 2 năm Quý Sửu 1973, lúc này đã 50 tuổi, Sư gát bỏ mọi duyên trần, tìm đến chùa Từ Ânquận 11Chợ Lớn, xin thế phát xuất gia với Hòa thượng Hoằng Tu (đời thứ 51 Tào Động tông) và ở lại đây tu học thiền môn quy tắc. Đến tháng 5 năm 1974, Sư được Bổn sư cho đi thọ Tam đàn Cụ túc giới tại giới đàn mở tại chùa Cực Lạc, Malaysia.

Từ đó, Sư chuyên tham câu thoại đầu “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?“. Trải qua nhiều năm, một hôm, do đọc quyển Trung Quán Luận đến câu: "Do có nghĩa KHÔNG nên thành tựu tất cả pháp", Sư đốn ngộ ý chỉ TỪ KHÔNG HIỂN DỤNG, lại tỏ ngộ câu KHÔNG sanh nơi đại giác, như biển nổi hòn bọt, vô số nước hữu lậu, đều từ KHÔNG sanh khởi" trong Kinh Lăng Nghiêm, với ý Lấy VÔ TRỤ làm gốc của Lục Tổ Huệ NăngTừ gốc VÔ TRỤ lập tất cả pháp của Ngài Duy Ma Cật, vốn cùng một ý chỉ, VÔ TRỤ tức TÁNH KHÔNG, thể Chơn Như vốn KHÔNG mà tự hiển bày sự dụng; thể và dụng của Chư Phật với chúng sanh vốn chẳng hai chẳng khác, cùng khắp không gian thời gian, nơi thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt, dù là phàm phu mà sức dụng của Phật Tánh chẳng kém hơn Phật, cũng chẳng từng gián đoạn, chỉ vì chúng sanh ứng dụng hàng ngày mà chẳng tự biết.[2][8]

Thời kỳ hoằng pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày mồng 2 tháng 4 năm Đinh Tỵ 1977, thừa lệnh Hòa Thượng Bổn sư, Sư ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền, pháp môn Tham Thoại Đầu tại Chùa Từ Ân, đường Hùng Vương, Quận 11Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1983, tứ chúng quy tụ ngày càng đông. Phật tử theo tu học pháp Tổ Sư Thiền hơn 4000 người, mỗi lần tham dự thiền thất (7 ngày Tham Thiền) đều vượt trên 300 người.[2]

Hòa thượng Duy Lực tại Hoa Kỳ[9]
Hòa thượng Duy Lực cùng với các đệ tử tại Từ Ân Thiền Đường (ngồi giữa mặc y màu vàng)[9]

Tháng 2 năm Kỷ Tỵ 1989, Sư nhận lời thỉnh cầu của Phật tử ở hải ngoại, được Nhà nước cho phép sang định cư tại Mỹ Quốc. Tại đây, Sư sáng lập Từ Ân Thiền Đường ở thành phố Los Angeles, bang California để hoằng dương thiền học. Đến tham học tại đây, có Phật tử người Âu châuÁ châu và đông nhất là kiều bào người Việt Nam.[8]

Những năm sau đó, uy tín và đạo lực của Sư vang xa. Sư được cung thỉnh đến các nước như : CanadaAustraliaHong KongĐài Loan và các thiền đường tại Mỹ để giảng dạy pháp Tổ Sư Thiền. Tuy nhiên, Sư vẫn thường xuyên trở về Việt Nam để tiếp tục sự nghiệp thiền học mà Sư đã gầy dựng và truyền bá, cùng giảng dạy ở các tự viện Phật giáo trong thành phố Hồ Chí Minh, nơi có điều kiện mở thiền thất thỉnh cầu.[8]

Năm Bính Tý 1996, Sư về nước thành lập một trang trại trồng rau sạch, tên là "Vườn Vô Vi", không dùng phân bón hóa học và thuốc sát trùng tại huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh để làm kinh tế tự túc cho thiền đường. Lần lượt Sư được mời thỉnh đi đến các thiền đường ở các tỉnh thành như: Bà Rịa - Vũng TàuKhánh HòaBình ĐịnhLong AnSóc TrăngTây Ninh... để thuyết giảng thiền học.[8]

Năm Mậu Dần 1998, Sư được chư tôn túc Giáo hội Phật giáo Việt Nam mời làm Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung ương, chính thức là Giảng sư của Giáo hội, được phân công thuyết giảng tại các khóa bồi dưỡng Hoằng pháp do Giáo hội tổ chức tại các tỉnh thành.[8]

Năm Kỷ Mão 1999, Sư quyên góp từ các Phật tử ở hải ngoại, về Việt Nam thành lập phòng khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho nhân dân (hiện nay đã trở thành Thiền Viện Duy Lực) tại xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.[8]

Tượng sáp HT Duy Lực tôn trí tại Thiền Viện Duy Lực

Thời kỳ viên tịch[sửa | sửa mã nguồn]

Suốt cuộc đời hành đạo, Sư tùy duyên hóa độ, tận tụy với sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh. Sư ứng hiện ở đời làm nên bao công hạnh, để rồi khi hóa duyên đã mãn, Sư ra đi về cõi tịch tĩnh mà không chi bận lòng...[8]

Lúc 1 giờ 30 sáng (giờ Việt Nam), ngày 8 tháng 1 năm 2000, tức ngày mồng Hai tháng Chạp năm Kỷ Mão, Sư thâu thần thị tịch tại CaliforniaMỹ Quốc, trụ thế 77 năm, hành đạo 25 mùa Hạ. Môn đồ pháp quyến trà tỳ nhục thân Sư, phân chia xá lợi, xây Bảo tháp tôn thờ ở Từ Ân Thiền ĐườngMỹ Quốc và ở chùa Từ ÂnViệt Nam.[2]

Trước tác[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài ra, Sư còn trước tác và dịch thuật từ tiếng Hán sang tiếng Việt hơn 20 loại kinh điển và ngữ lục. Lượng sách phát hành tại Việt Nam trên mấy mươi ngàn quyển, đã được xuất bản cùng tái bản nhiều lần. (Từ: Tổng kết Kinh Sách với file MP3[10])

Biên dịch (từ Hán sang Việt)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bá Trượng Ngữ Lục và Quảng Lục
  • Bửu Tạng Luận
  • Cội Nguồn Truyền Thừa
  • Công Án của Phật Thích Ca và Tổ Đạt Ma
  • Đại Huệ Ngữ Lục
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận
  • Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh
  • Truyền Tâm Pháp Yếu
  • Kinh Kim Cang
  • Kinh Lăng Già
  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Yếu chỉ
  • Kinh Viên Giác
  • Lâm Tế Ngữ Lục
  • Nam Tuyền Ngữ Lục
  • Kinh Pháp Bảo Đàn
  • Tham Thiền Cảnh Ngữ
  • Tham Thiền Phổ Thuyết
  • Thiền Thất Khai Thị Lục
  • Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải
  • Triệu Luận Lược giải
  • Chư Kinh Tập Yếu[11]

Biên soạn[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bát Nhã Tâm Kinh Lược giải
  • Danh từ Thiền Học
  • Đường lối thực hành Tham Tổ Sư Thiền, Thành Hội Phật Giáo, Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
  • Duy Lực Ngữ Lục Quyển Thượng[12]
  • Duy Lực Ngữ Lục Quyển Hạ[12]
  • Góp Nhặt Lời Phật Tổ và Thánh Hiền
  • Lược giảng Kinh Lăng Nghiêm[12]
  • Lược giảng Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải [12]
  • Phật Pháp với Thiền Tông
  • Tâm Linh và Khoa Học trong Phật Pháp
  • Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21
  • Yếu Chỉ Kinh Hoa Nghiêm
  • Yếu Chỉ Phật Pháp
  • Yếu Chỉ Trung Quán Luận

Tham khảo & chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "Thế danh" tức là tên khai sinh, tên tục (Lời người tạo trang).
  2. a b c d e f g “Giới Thiệu”Tổ Sư Thiền. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2023.
  3. ^ “Tiểu Sử HT Thích Duy Lực”Giác Ngộ Online. 27 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2023.
  4. ^ “Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền”khosachcu.com. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  5. ^ Pháp tự và pháp danh Sư được thầy Hoằng Tu khi truyền giới đặt sau này (Lời người tạo trang)
  6. ^ Thích, Duy Lực (2016). Duy Lực Ngữ Lục. Quyển Hạ. NXB Tôn giáo. tr. 19.
  7. ^ DUY LỰC NGỮ LỤC QUYỂN THƯỢNG P.2 - KHÔNG NHẠC NỀN., truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023
  8. a b c d e f g h “HÒA THƯỢNG THÍCH DUY LỰC (1923 – 2000) - Chùa Phật học Xá Lợi”chuaxaloi.vn. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2023.
  9. a b Tham, Thien (29 tháng 11 năm 2021). “Từ Ân Thiền Đường”Tổ Sư Thiền. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  10. ^ Thiền, Duy Lực (12 tháng 11 năm 2011). “Tổng kết Kinh Sách do Hòa thượng Thích Duy Lực dịch và trứ tác”Duy Lực Thiền. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2023.
  11. ^ Bao gồm các kinh Kim Cang, Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Pháp Bảo Đàn, Duy Ma, Viên Giác, Triệu Luận (Lời người tạo trang)
  12. a b c d Đệ tử sưu tập dựa trên băng giảng (Lời người tạo trang)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Trang web[sửa | sửa mã nguồn]

Kênh Youtube[sửa | sửa mã nguồn]

.

  • CHIA SẺ
  •  
  •  
  •  
  •  
  •  

0:00/0:00

0:00

GNO - Sáng nay,13-1 (1-12-Canh Tý), tại chùa Phật Đà (quận 3, TP.HCM) môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm lần thứ 21 ngày Hòa thượng Thích Duy Lực viên tịch.

Buổi lễ diễn ra trang nghiêm với nghi thức niêm hương tưởng niệm dưới sự chứng minh của Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh, Thành viên Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, cùng chư tôn đức Hội đồng Trị sự, các ban, viện Trung ương, Phật giáo TP.HCM và quận 3.

Hòa thượng Thích Duy Lực sinh năm 1923 tại làng Long Tuyền, huyện Bình Thủy, tỉnh Cần Thơ.

Năm lên 7 tuổi, ngài theo cha về quê sống tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 1, năm 16 tuổi, theo cha trở lại Việt Nam sinh sống, việc học bị gián đoạn.

Tưởng niệm Hòa thượng Thích Duy Lực (1923 - 2000) ảnh 1

Đông đảo chư Tăng Ni, Phật tử tham dự tưởng niệm - Ảnh: Pháp Hiện

Ngài thường tranh thủ tự học trong lúc rỗi rảnh. Đến năm 26 tuổi (1948), ngài thi đậu bằng giáo viên Hoa văn, cộng tác biên soạn cho báo Viễn Đông tiếng Hoa tại Chợ Lớn và được mời dạy ở các trường tiểu học tỉnh Tà-keo (Campuchia), trường Khải Trí ở Cần Thơ, trường Cái Vồn ở Vĩnh Long trong thời gian 10 năm.

Năm 1958, sau khi thi lấy bằng Đông y sĩ cấp 1, ngài được mời làm đông y sĩ cho tiệm thuốc Tế Ngươn Đường (Cà Mau), Minh Nguyệt cư sĩ Lâm tỉnh Cần Thơ, khám bệnh miễn phí cho dân trong thời gian 8 năm.

Trong tủ sách của cư sĩ Lâm có bộ Tục Tạng, 150 quyển, đọc được 7 quyển, sau quyết định chỉ xem phần về Thiền tông. Lúc đó ngài theo pháp sư Diệu Duyên tham học Tổ sư thiền.

Năm 1973, ngài được Hòa thượng Hoằng Tu cho xuất gia tu học tại chùa Từ Ân, quận 11 (Chợ Lớn). Tháng 5 năm 1974, ngài được thọ tam đàn Cụ túc giới tại chùa Cực Lạc (Malaysia).

Tưởng niệm Hòa thượng Thích Duy Lực (1923 - 2000) ảnh 2

Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh ban đạo từ - Ảnh: Pháp Hiện

Ngày 2-4-1977, thừa lệnh Hòa thượng Bổn sư, ngài ra hoằng pháp Tổ Sư thiền tại chùa Từ Ân (quận 11). Đến năm 1983, tứ chúng quy tụ ngày càng đông, Phật tử theo tu học pháp Tổ Sư thiền hơn 4.000 người, mỗi lần tham dự thiền thất đều vượt trên 300 người.

Từ những năm 1990, ngài thường đi giảng thiền ở nhiều nơi trên thế giới. Đến thiền đường học đạo có người Tây, Âu và Á Châu, trong đó người Việt Nam là đông nhất.

Những năm cuối đời, ngài thường được thỉnh đến giảng tại các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như: chùa Chánh Giác ở Toronto Canada, chùa Quan Âm ở Brisbane - Australia, tịnh xá Đại Bi ở Đài Loan và một số chùa ở Hồng Kông. Nhất là các thiền đường ở Mỹ để giảng dạy pháp Tổ Sư Thiền và thính chúng lui tới tu học đông đảo.

Ngoài ra, ngài còn trước tác và dịch thuật từ tiếng Hán sang tiếng Việt hơn 20 loại kinh điển và ngữ lục. Lượng sách phát hành tại Việt Nam trên mấy mươi ngàn quyển.

Đến năm 1998, ngài được mời làm Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung ương GHPGVN, thỉnh giảng tại các khóa bồi dưỡng Hoằng pháp ngắn hạn ở Bình Định, TP.HCM.

Ngài thâu thần thị tịch lúc 1 giờ 30 ngày 2-12-Kỷ Mão (2000), trụ thế 77 năm.

Như Danh

GNO - Sáng nay,13-1 (1-12-Canh Tý), tại chùa Phật Đà (quận 3, TP.HCM) môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm lần thứ 21 ngày Hòa thượng Thích Duy Lực viên tịch.

Buổi lễ diễn ra trang nghiêm với nghi thức niêm hương tưởng niệm dưới sự chứng minh của Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh, Thành viên Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, cùng chư tôn đức Hội đồng Trị sự, các ban, viện Trung ương, Phật giáo TP.HCM và quận 3.

Hòa thượng Thích Duy Lực sinh năm 1923 tại làng Long Tuyền, huyện Bình Thủy, tỉnh Cần Thơ.

Năm lên 7 tuổi, ngài theo cha về quê sống tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Sau khi tốt nghiệp phổ thông cấp 1, năm 16 tuổi, theo cha trở lại Việt Nam sinh sống, việc học bị gián đoạn.

Tưởng niệm Hòa thượng Thích Duy Lực (1923 - 2000) ảnh 1

Đông đảo chư Tăng Ni, Phật tử tham dự tưởng niệm - Ảnh: Pháp Hiện

Ngài thường tranh thủ tự học trong lúc rỗi rảnh. Đến năm 26 tuổi (1948), ngài thi đậu bằng giáo viên Hoa văn, cộng tác biên soạn cho báo Viễn Đông tiếng Hoa tại Chợ Lớn và được mời dạy ở các trường tiểu học tỉnh Tà-keo (Campuchia), trường Khải Trí ở Cần Thơ, trường Cái Vồn ở Vĩnh Long trong thời gian 10 năm.

Năm 1958, sau khi thi lấy bằng Đông y sĩ cấp 1, ngài được mời làm đông y sĩ cho tiệm thuốc Tế Ngươn Đường (Cà Mau), Minh Nguyệt cư sĩ Lâm tỉnh Cần Thơ, khám bệnh miễn phí cho dân trong thời gian 8 năm.

Trong tủ sách của cư sĩ Lâm có bộ Tục Tạng, 150 quyển, đọc được 7 quyển, sau quyết định chỉ xem phần về Thiền tông. Lúc đó ngài theo pháp sư Diệu Duyên tham học Tổ sư thiền.

Năm 1973, ngài được Hòa thượng Hoằng Tu cho xuất gia tu học tại chùa Từ Ân, quận 11 (Chợ Lớn). Tháng 5 năm 1974, ngài được thọ tam đàn Cụ túc giới tại chùa Cực Lạc (Malaysia).

Tưởng niệm Hòa thượng Thích Duy Lực (1923 - 2000) ảnh 2

Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh ban đạo từ - Ảnh: Pháp Hiện

Ngày 2-4-1977, thừa lệnh Hòa thượng Bổn sư, ngài ra hoằng pháp Tổ Sư thiền tại chùa Từ Ân (quận 11). Đến năm 1983, tứ chúng quy tụ ngày càng đông, Phật tử theo tu học pháp Tổ Sư thiền hơn 4.000 người, mỗi lần tham dự thiền thất đều vượt trên 300 người.

Từ những năm 1990, ngài thường đi giảng thiền ở nhiều nơi trên thế giới. Đến thiền đường học đạo có người Tây, Âu và Á Châu, trong đó người Việt Nam là đông nhất.

Những năm cuối đời, ngài thường được thỉnh đến giảng tại các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như: chùa Chánh Giác ở Toronto Canada, chùa Quan Âm ở Brisbane - Australia, tịnh xá Đại Bi ở Đài Loan và một số chùa ở Hồng Kông. Nhất là các thiền đường ở Mỹ để giảng dạy pháp Tổ Sư Thiền và thính chúng lui tới tu học đông đảo.

Ngoài ra, ngài còn trước tác và dịch thuật từ tiếng Hán sang tiếng Việt hơn 20 loại kinh điển và ngữ lục. Lượng sách phát hành tại Việt Nam trên mấy mươi ngàn quyển.

Đến năm 1998, ngài được mời làm Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung ương GHPGVN, thỉnh giảng tại các khóa bồi dưỡng Hoằng pháp ngắn hạn ở Bình Định, TP.HCM.

Ngài thâu thần thị tịch lúc 1 giờ 30 ngày 2-12-Kỷ Mão (2000), trụ thế 77 năm.

Như Danh

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state