Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
HT Thích Thanh Từ (SN 1924) -Phó pháp chủ Hội đồng Chứng minh 2017
Thích Thanh Từ (thế danh Trần Hữu Phước, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1924) là thiền sư; nhà khảo cứu, thông dịch và giảng giải các kinh luận Phật học người Việt Nam. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ hiện là Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ông được biết đến là người phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử cùng nhiều ấn phẩm về thiền.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:406

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
HT Thích Thanh Từ (SN 1924) -Phó pháp chủ Hội đồng Chứng minh 2017

Thích Thanh Từ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bạn có tin nhắn mới Tin nhắn! (thay đổi gần đây).

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 8/2022)

Hòa thượng
Thích Thanh Từ
釋清慈
Tên khác Trần Thanh Từ
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáo Phật giáo
Trường phái Thiền tông
Tông phái Thiền phái Trúc Lâm
Xuất gia 15 tháng 7, 1949
chùa Phật Quang
xứ Bang Chang, Trà Ôn
Phó pháp chủ
Hội đồng Chứng minh
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Nhiệm kỳ
2017 – nay
Pháp chủ Thích Phổ Tuệ
Thích Trí Quảng
Thông tin cá nhân
Sinh  
Thế danh Trần Hữu Phước
Ngày sinh 24 tháng 7, 1924 (98 tuổi)
Nơi sinh ấp Tích Khánh, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long
Thân quyến  
Cha Trần Văn Mão
Mẹ Nguyễn Thị Đủ
Quốc tịch  Việt Nam
 Cổng thông tin Phật giáo

Thích Thanh Từ (thế danh Trần Hữu Phước, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1924) là thiền sư; nhà khảo cứu, thông dịch và giảng giải các kinh luận Phật học người Việt Nam. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ hiện là Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Ông được biết đến là người phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử cùng nhiều ấn phẩm về thiền.

Tuổi thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Thiền Sư Thích Thanh Từ tên khai sinh Trần Hữu Phước, sau đổi thành Trần Thanh Từ, sanh ngày 24 tháng 7 năm 1924 tại ấp Tích Khánh, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Cha của ông là Trần Văn Mão, mẹ là Nguyễn Thị Đủ. Sau khi trải nghiệm ba tháng làm công quả tại chùa Phật Quang, xứ Bang Chang, Trà Ôn, vào ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Sửu, 1949, Thích Thiện Hoa đã thế phát xuất gia cho ông.

Học Phật tại các Phật học đường[sửa | sửa mã nguồn]

  • Năm 1949-1950: Học Sơ đẳng Phật học tại Phật Học Đường Phật Quang.
  • Năm 1951-1952: Học Trung đẳng Phật học tại Chùa Phật Quang và Chùa Phước Hậu. Thọ giới Sa Di do tổ Khánh Anh làm Hòa thượng Đàn Đầu.
  • Năm 1953-1954: Học Trung đẳng tại Phật học Đường Nam Việt, Chùa Ấn Quang. Thọ giới Cụ túc tại chùa Ấn Quang do tổ Huệ Quang làm Hòa thượng.
  • Năm 1954-1958: Học Cao đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Nam Việt.

Các vai trò đã qua[sửa | sửa mã nguồn]

• Năm 1960-1966: Thiền Sư Thích Thanh Từ đã giữ các chức vụ trong Ban Hoằng Pháp Giáo hội Tăng Già Nam Việt như sau
  • Phó vụ trưởng Phật học vụ, sau đó là Vụ trưởng Phật học vụ.
  • Quản viện kiêm giáo sư Phật Học viện Huệ Nghiêm.
  • Giảng sư các phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm.
  • Giảng sư Đại Học Vạn Hạnh.
  • Tháng 11 năm 2017, Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc Giáo hội Phật giáo Việt Nam lần thứ VIII đã suy tôn Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ vào ngôi vị Phó pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Nhập thất và phát triển Thiền tông[sửa | sửa mã nguồn]

  • Năm 1966-1968, Thiền Sư Thích Thanh Từ xin phép Hòa thượng Bổn sư được nghỉ việc Giáo hội, tìm chỗ ẩn tu tại núi Tương Kỳ tại Vũng Tàu, dựng Pháp Lạc Thất dốc chí tu hành cho đến sáng đạo.
  • Mùng 8 tháng 12 năm Mậu Thân, Thích Thanh Từ ra khỏi thất và tuyên bố "đã đến lúc làm Phật sự".
  • Năm 1970: Thành lập Tu Viện Chơn Không trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu, mở khóa tu Thiền đầu tiên với 10 thiền sinh.
  • Năm 1974: Thành lập Thiền Viện Bát Nhã và Linh Quang cũng tại Vũng Tàu.
  • Năm 1975 trở đi: Phát triển các Thiền Viện mang tên CHIẾU: Thường Chiếu (1974), Viên Chiếu (1975), Huệ Chiếu (1979), Linh Chiếu (1980), Phổ Chiếu (1980), Tịch Chiếu (1987), Liễu Đức (1986).
  • Năm 1993: Thành lập Thiền Viện Trúc Lâm Phụng Hoàng trên núi Phụng Hoàng, Đà Lạt.
  • Năm 2002: Trùng tu Chùa Lân, lập thành thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử.
  • Năm 2005, dựng lập Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên.

Đến năm 2013, Thiền Sư Thích Thanh Từ đã xây dựng trên 60 Thiền Viện, Thiền Tự và trên 100 đạo tràng học Phật tu Thiền theo thiền phái Trúc Lâm Việt Nam.

Phát triển thiền tông ở Hải ngoại[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tại Hoa Kỳ: Lập hơn 10 thiền Viện, thiền tự.
  • Tại Canada: Lập 2 thiền viện.
  • Tại Pháp: Lập 1 thiền tự.
  • Tại Úc: Lập 5 thiền tự.

Du hóa khắp nơi[sửa | sửa mã nguồn]

Thiền Sư Thích Thanh Từ đã đến các nước: Campuchia (1950), Ấn Độ, Sri Lanka, Nhật Bản (1965), Trung Quốc (1993), Pháp (1994, 2002), Thụy Sĩ (1994), Canada (1994, 2002), Indonesia (1996), Hoa Kỳ (1994, 2000, 2001, 2002), Úc Châu (1996, 2002). Đã quy y từ 1970-2003 tại Việt Nam: 75260 Phật tử, tại các nước ngoài: 9600 Phật tử. Tổng số: 84860.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Kinh[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bát-nhã Tâm Kinh giảng giải (1998)
  • Kinh Bát Đại Nhân Giác giảng giải (1997)
  • Kinh Bát-nhã giảng giải (2000)
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải (1993/2000)
  • Kinh Kim Cang giảng giải (1997)
  • Kinh Lăng-già Tâm Ấn (dịch 1993/1997)
  • Kinh Thập Thiện giảng giải (1993/1998)
  • Kinh Viên Giác giảng giải (2000)

Luận[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bích Nham Lục (dịch 1995/2002)
  • Kinh Pháp Bảo Đàn giảng giải (1993/1999)
  • Thiền Căn Bản (dịch 1993/1999) (Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán (dịch 1963), Tọa Thiền Tam-muội (dịch 1961) Lục Diệu Pháp Môn (dịch 1962)
  • Thiền Đốn Ngộ (dịch 1973/1999) (Thiền Tông Vĩnh Gia Tập (dịch 1974), Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn (dịch 1971), Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ, Tọa Thiền Dụng Tâm Ký, Tham Thiền Yếu Chỉ (dịch 1962)
  • Thiền Sư Thần Hội giảng giải (2001/2002) Hiển Tông Ký (dịch và giảng 1993)

Sách viết về thiền[sửa | sửa mã nguồn]

  • Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20 (1992/1998)
  • Thiền sư Việt Nam (1991/1995/1999).

Thiền viện[sửa | sửa mã nguồn]

Các thiền viện sau đây chính thức được Thiền Sư Thích Thanh Từ thành lập, làm nơi giáo hóa và hướng dẫn tu hành:

  • Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ - Vũng Tàu, thành lập vào ngày 15 tháng 4 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
  • Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 8 năm 1974.
  • Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 4 năm 1975.
  • Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 4 năm 1979.
  • Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 2 năm 1980.
  • Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 6 năm 1980.
  • Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 7 năm 1987.
  • Thiền viện Liễu Đức, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, thành lập tháng 4 năm 1993.
  • Chùa Lân - Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.
  • Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, thành lập ngày 27 tháng 11 năm 2005
  • Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ ĐứcThành phố Hồ Chí Minh.
  • Thiền viện Hương Hải, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành - Đồng Nai.
  • Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, CaliforniaHoa Kỳ, thành lập năm 2001.
  • Thiền viện Quang Chiếu, Fort WorthTexas, Hoa Kỳ, thành lập năm 2000.
  • Thiền viện Bồ Đề, Boston, Hoa Kỳ, thành lập năm 2006.
  • Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
  • Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Trúc Lâm Minh Chánh, Renton, Washington, Hoa Kỳ, thành lập năm 2003.
  • Thiền viện Chánh Tâm, Anaheim, California, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Trúc Lâm Hoa Từ Mesa, Arizona, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Chân Giác, Fullerton, California, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Chân Tâm, Oklahoma City, Oklahoma, Hoa Kỳ.
  • Thiền tự Đạo Viên, QuébecCanada, thành lập năm 2002.
  • Thiền tự Thường Lạc - Pháp.
  • Thiền tự Pháp Loa - Úc.
  • Thiền tự Hiện Quang - Úc.
  • Thiền tự Hỷ Xả - Úc.
  • Thiền viện Tiêu Dao - Úc.
  • Thiền tự Tuệ Căn - Úc.
  • Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức - Xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Khánh thành ngày 16 tháng 1 năm 2011
  • Thiền Viện Phúc Trường - Tp.Thủ Dầu Một. Lạc thành ngày 16/05/2013
  • Thiền Viện Trúc Lâm Thanh Nguyên - xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. khánh thành ngày 7/09/2014
  • Từ Đường Trúc Lâm - xã Tích Thiện, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. khánh thành ngày 23/11/2015...

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

.

ghe bản Audio trên Youtube

Thiền sư – Hòa thượng Thích Thanh Từ là bậc cao tăng vô cùng nổi tiếng. Ông có sự ảnh hưởng và đóng góp cao cả đối với Phật học và Phật giáo Việt Nam, góp phần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mà chúng ta nhìn thấy ngày nay.

thích thanh từ

**Trong bài viết có quảng cáo tự động từ Google, nếu quan tâm xin bạn hãy click để ủng hộ website. Nếu không quan tâm, bạn hãy bỏ qua nó, rất xin lỗi vì sự bất tiện này!

Nội dung chính [Ẩn]

Tiểu sử Hòa thượng Thích Thanh Từ là ai?

Hòa thượng Thích Thanh Từ có tên thật là Trần Hữu Phước, ông sinh ngày 24 tháng 7 năm 1924 tại ấp Tích Khánh, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Cha của ông là ông Trần Văn Mão, mẹ là bà Nguyễn Thị Đủ, ông sinh ra và lớn lên tại Việt Nam.

Thân phụ của Hòa thượng Thích Thanh Từ là ông Trần Văn Mão, từ nhỏ đã theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần, thanh cao, theo đạo Cao Ðài. Thân mẫu của ông là bà Nguyễn Thị Ðủ, quê làng Thiện Mỹ, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà vốn là người hiền lành chân chất, suốt đời tận tụy, tần tảo sớm tối, hy sinh vì chồng vì con.

Hòa thượng Thích Thanh Từ tuy được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, thế nhưng ông đã rất nổi bật với những nét riêng ngay từ khi còn thơ bé, đó là sự trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt ông vô cùng hiếu thảo với cha mẹ và thích làm việc thiện.

hòa thượng thích thanh từ

Vào năm ông 10 tuổi, nhân dịp theo cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người bác của gia đình, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã được đến thăm chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê lần đầu tiên để cúng cầu siêu cho bác. Nhờ đó mà ông đã nảy sinh cái duyên đối với chốn cửa Phật, tức cảnh đọc thơ.

Ngày 15 tháng 7 năm 1949, sau 3 tháng làm công quả tại chùa Phật Quang, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã được sư thầy Tổ Thiện Hoa chính thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của ông đã được thực hiện. Từ đó, ông đã siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ nhỏ những bài giảng Phật pháp. Ngoài ra ông còn phụ trông nom và chăm sóc hàng chục chú tiểu trong chùa.

Quá trình học Phật của Hòa thượng Thích Thanh Từ

Vào giai đoạn những năm 1949 – 1950, Hòa thượng Thích Thanh Từ theo học lớp Sơ đẳng năm thứ 3 tại Phật học đường Phật Quang. Đến năm 1951, ông bắt đầu học lên Trung đẳng. Cũng trong năm này, chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời tất cả tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng được theo và thọ giới Sa-di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu.

Cho đến năm 1953, ông đã theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài Gòn, tiếp tục theo học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, ông được thọ giới cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng đàn đầu. Từ những năm 1954 đến năm 1959, ông đã theo học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt.

Sau gần 10 năm trải qua Sơ đẳng, Trung đẳng, Cao đẳng Phật học, đoạn đường Tăng sinh kể như là đã hoàn tất, Hòa thượng Thích Thanh Từ bắt đầu bước sang thời kỳ hóa đạo. Ông là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng pháp, có uy tín khá lớn thời bấy giờ và được đông đảo Phật tử xa gần yêu mến và quý trọng.

hòa thượng thích thanh từ

Những thành tựu nổi bật mà Hòa Thượng Thích Thanh Từ đã đạt được

Từ năm 1960 đến năm 1964, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Phật giáo, có thể kể đến như: Phó Vụ trưởng Phật học vụ, Vụ trưởng Phật học vụ, Giáo sư kiêm Quản viện Phật học viện Huệ Nghiêm, Giảng sư Viện Ðại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm,…

Sau lễ mãn khóa Cao Trung chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã xin phép Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Khi này ông đã thật sự giã từ Phật học viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng, thế nhưng hai tiếng “Tăng Ni” vẫn xoáy sâu vào lòng ông, để sau này chút duyên “Thầy Trò” ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.

hòa thượng thích thanh từ

Tháng 4 năm 1966, Hòa thượng Thích Thanh Từ dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Ðại Tạng Kinh, thế nhưng đã ấp ủ một Thiền tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình.

Rằm tháng tư năm Mậu Thân (1968), Hòa thượng Thích Thanh Từ tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: “Nếu đạo không sáng, thề không ra thất.” Thế là cửa sài đôi cánh khép, toàn thể môn nhân quy ngưỡng lên non một lòng mong đợi.

Tháng 7 năm 1968, ông đã liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát-nhã. Từ con mắt Bát-nhã trông qua Tạng kinh, lời Phật, ý Tổ đã được khai thông. Giáo lý Ðại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng Thích Thanh Từ khám phá từ công phu thiền định của ông.

Ngày 8 tháng 12 năm 1968, Hòa thượng Thích Thanh Từ tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử trên khắp cả nước. Nước cam lộ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy. Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của vị Hòa thượng rất được yêu quý này. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau này Phật giáo Việt Nam vinh dự đón một ngôi sao sáng mở ra trang lịch sử Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng nhất vào cuối thế kỷ 20.

hòa thượng thích thanh từ

Hòa Thượng Thích Thanh Từ còn sống không? Bị bệnh gì?

Hiện nay thiền sư – Hòa thượng Thích Thanh Từ vẫn còn sống, thầy hiện tại sức khỏe đã khá yếu do bệnh tuổi già. Cả một đời thầy đã đi khắp thế giới để truyền bá tư tưởng Phật giáo và thành lập nhiều những thiền viện để làm nơi hướng dẫn tu hành cho những người yêu mến và muốn quy y cửa Phật.

thích thanh từ

Danh sách các thiền viện đã được Hòa thượng Thích Thanh Từ thành lập

Thiền sư – Hòa thượng Thích Thanh Từ là người có công rất lớn trong việc khôi phục dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mà chúng ta biết đến ngày nay. Bên cạnh đó, ông cũng là người thành lập nên rất nhiều các thiền viện khác nhau trên khắp cả nước cũng như ở nước ngoài, làm nơi hướng dẫn tu hành và giáo hóa Phật pháp đến với tất cả mọi người. sau đây là danh sách cụ thể các thiền viện của ông:

– Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ – Vũng Tàu, thành lập vào ngày 15 tháng 4 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.

– Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 8 năm 1974.

– Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 4 năm 1975.

– Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành lập tháng 4 năm 1979.

– Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 2 năm 1980.

– Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành lập tháng 6 năm 1980.

– Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 7 năm 1987.

– Thiền viện Liễu Đức, Long Thành – Đồng Nai.

– Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, thành lập tháng 4 năm 1993.

– Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.

– Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, thành lập ngày 27 tháng 11 năm 2005

– Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

– Thiền viện Hương Hải, Long Thành – Đồng Nai.

– Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành – Đồng Nai.

– Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành – Đồng Nai.

– Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2001.

– Thiền viện Quang Chiếu, Fort Worth, Texas, Hoa Kỳ, thành lập năm 2019.

– Thiền viện Bồ Đề, Boston, Hoa Kỳ, thành lập năm 2006.

– Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.

– Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ.

– Thiền viện Trúc Lâm Minh Chánh, Renton, Washington, Hoa Kỳ, thành lập năm 2003.

– Thiền viện Chánh Tâm, Anaheim, California, Hoa Kỳ.

– Thiền viện Trúc Lâm Hoa Từ Mesa, Arizona, Hoa Kỳ.

– Thiền viện Chân Giác, Fullerton, California, Hoa Kỳ.

– Thiền viện Chân Tâm, Oklahoma City, Oklahoma, Hoa Kỳ.

– Thiền tự Đạo Viên, Québec, Canada, thành lập năm 2002.

– Thiền tự Thường Lạc – Pháp.

– Thiền tự Pháp Loa – Úc.

– Thiền tự Hiện Quang – Úc.

– Thiền tự Hỷ Xả – Úc.

– Thiền viện Tiêu Dao – Úc.

– Thiền tự Tuệ Căn – Úc.

– Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức – Xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Khánh thành ngày 16 tháng 1 năm 2011

– Thiền Viện Phúc Trường – Tp.Thủ Dầu Một. Lạc thành ngày 16/05/2013

– Thiền Viện Trúc Lâm Thanh Nguyên – xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. khánh thành ngày 7/09/2014

– Từ Đường Trúc Lâm – xã Tích Thiện, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. khánh thành ngày 23/11/2015.

thích thanh từ

Ngoài ra, Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long. Ông còn giảng giải và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Đồng thời, ông cũng giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử trên khắp cả nước.

Hòa thượng Thích Thanh Từ đã đi du hóa và thăm viếng nhiều nước: Campuchia (1956); Ấn Ðộ, Sri Lanka và Nhật Bản (1965); Trung Quốc (1993); Pháp (1994, 2002); Thụy Sĩ (1994); Indonesia (1996); Canada (1994, 2002); Hoa Kỳ (1994, 2000, 2001, 2002); Úc (1996, 2002).

Một số bài giảng hay của Hòa Thượng Thích Thanh Từ

thích thanh từthích thanh từthích thanh từthích thanh từthích thanh từthích thanh từthích thanh từthích thanh từthích thanh từ

 

TÓM LƯỢC TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THIỀN SƯ THÍCH THANH TỪ

 Chùa A Di Đà |  8/10/2015 | 0 Bình luận

Thiền sư Thích Thanh Từ là cao tăng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại, nhà hoằng pháp lớn, dịch giả và tác gia nổi tiếng về Phật học, người có công dịch giải nhiều nhất về thiền tông, người phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Sinh ngày 24 tháng 07 năm Giáp Tý (1924), tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long).

Thân phụ của Hòa thượng húy Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao Đài, lập gia đình hơi muộn. Thân mẫu của Hòa thượng húy Nguyễn Thị Đủ quê làng Thiện Mỹ, dòng thanh bạch, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tụy hi sinh vì chồng vì con.

Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng, nhưng Người đã nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ: trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt rất hiếu thảo với Cha Mẹ.

Khoảng năm 9 tuổi, nhân theo Cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người Bác thứ ba, Hòa thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho Bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng thinh không cô tịch, Hòa thượng rúng động như có một nỗi niềm giao cảm tự bao giờ. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ:

Non đảnh là nơi thú lắm ai,
Đó cảnh nhàn du của khách tài.
Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc,
Chuông hồi văng vẳng quá bi ai!

Có thể nói rằng chí xuất trần của Hòa thượng nổi dậy kể từ đây.

Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hòa thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hòa thượng vì thế càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm: “Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ.”

Từ dạo đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc đời của Hòa thượng rẽ sang một con đường sáng.

Ngày 15 tháng 07 năm Kỷ Sửu 1949, sau ba tháng công quả tại chùa Phật Quang, Hòa thượng được Tổ Thiện Hoa chánh thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của Người đã được thành tựu. Từ đây Hòa thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ em. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú Tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, song Hòa thượng luôn để tâm học Giáo điển.

Năm 1949-1950, Hòa thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ ba tại Phật học đường Phật Quang.

Đến năm 1951, Hòa thượng bắt đầu học lên Trung đẳng.

Một khuya nọ, nhân đọc kinh Lăng Nghiêm đến chỗ Phật chỉ Tôn giả A-nan nhận ra Bản tâm chân thật của chính mình qua Tánh thấy, Tánh nghe, bất giác Hòa thượng xúc động rơi lệ. Phải chăng đây là dấu hiệu cho biết chủng duyên Phật pháp nhiều đời của Người đã bắt đầu nẩy mầm?

Cũng trong năm này chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng cũng được theo và thọ giới Sa-di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu.

Năm 1953 Hòa thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài Gòn, tiếp tục học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hòa thượng được thọ giới Cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng đàn đầu.    

Từ năm 1954-1959, Hòa thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt. Những vị đồng khóa cùng ra trường với Hòa thượng như quí ngài Huyền Vi, Thiền Định, Từ Thông...

Như vậy là ngót mười năm Hòa thượng đã trải qua hai năm Sơ đẳng, ba năm Trung đẳng, bốn năm Cao đẳng. Tốt nghiệp các lớp Phật học xong là đoạn đường Tăng sinh đã hoàn tất. Hòa thượng bước sang thời kỳ hóa đạo. Hòa thượng là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng pháp, có uy tín lớn thời bấy giờ và được sự mến mộ của Phật tử xa gần.

Năm 1960-1964, Hòa thượng đã giữ những chức vụ trong Phật giáo:

Phó vụ trưởng Phật học vụ.
Vụ trưởng Phật học vụ.
Giáo sư kiêm Quản viện Phật học viện Huệ Nghiêm.
Giảng sư Viện đại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm,...

Sau lễ mãn khóa Cao Trung Chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng thầm nghĩ với ngần ấy đóng góp cũng phần nào tạm đủ nói lên tấm lòng tri ân và báo ân của mình đối với Thầy Tổ rồi. Hòa thượng liền xin phép với Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Chí đã quyết, Hòa thượng dằn lòng dứt áo ra đi, âm thầm một mình một bóng lên chốn non thâm.

Hòa thượng đã thật sự giã từ Phật học viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng. Nhưng hai tiếng “Tăng Ni” vẫn xoáy sâu vào lòng Người, để sau này chút duyên “Thầy Trò” ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.

Tháng 04 năm 1966, Hòa thượng dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Đại Tạng Kinh, nhưng đã ấp ủ một Thiền tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình.

Đến rằm tháng tư năm Mậu Thân, Hòa thượng tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: “Nếu đạo không sáng, thệ không ra thất.” Thế là cửa sài đôi cánh khép. Toàn thể môn nhân qui ngưỡng lên non một lòng mong đợi.

Tháng 07 năm 1968, Hòa thượng liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát-nhã. Từ con mắt Bát-nhã trông qua Tạng kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Đại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng khám phá từ công phu thiền định của Người.

Ngày 08 tháng 12 năm ấy, Hòa thượng tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy. Pháp Lạc thất thật xứng đáng là linh hồn của dòng thiền Chân Không. Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của Hòa thượng. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau này Phật giáo Việt Nam vinh dự có một ngôi sao sáng mở ra trang Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng vào cuối thế kỷ 20.

Hòa thượng đã từng nói: “Tôi là kẻ nợ của Tăng Ni và Phật tử. Ai biết đòi thì tôi trả trước, ai chưa biết đòi thì trả sau.” Suốt đời Ngài đều dốc hết sức mình lo cho Phật pháp, đặc biệt là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành tiến bộ. Tăng Ni tu hành có tiến bộ thì Phật pháp mới còn và lớn mạnh được. Sự tu hành tiến bộ của Tăng Ni là niềm vui của Ngài. Ngài nói: “Hoài bão của Thầy đều gởi gắm hết vào sự nỗ lực tu tập của tụi con. Tăng Ni tu có niềm vui, sáng được việc lớn, đó là biết thương tưởng đến Thầy. Bằng ngược lại thì thật là Thầy chưa đủ phước để được vui trước khi nhắm mắt. Bởi vì nguyện vọng khôi phục Thiền tông Việt Nam, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Thầy chưa thành tựu.”     

Các Thiền viện sau đây chính thức được Hòa thượng thành lập, làm nơi giáo hóa và hướng dẫn tu hành:

Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ - Vũng Tàu, thành lập vào tháng 04 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 08 năm 1974.
Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 04 năm 1975.
Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 04 năm 1979.
Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành - Đồng Nai, thành lập tháng 02 năm 1980.
Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành lập tháng 06 năm 1980.
Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 07 năm 1987.
Thiền viện Liễu Đức, Long Thành - Đồng Nai.
Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt - Lâm Đồng, thành lập tháng 04 năm 1993.
Chùa Lân - Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.
Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Thiền viện Hương Hải, Long Thành - Đồng Nai.
Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành - Đồng Nai.
Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành - Đồng Nai.
Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2001.
Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Hoa Kỳ, thành lập năm 2000.
Thiền viện Bồ Đề, Boston, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
Thiền tự Ngọc Chiếu, Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ.
Thiền tự Đạo Viên, Québec, Gia Nã Đại, thành lập năm 2002.
Thiền tự Thường Lạc - Pháp.
Thiền tự Pháp Loa - Úc.
Thiền tự Hiện Quang - Úc.
Thiền tự Hỷ Xả - Úc.
Thiền viện Tiêu Dao - Úc.
Thiền tự Tuệ Căn - Úc.
Hòa thượng cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long.        

Hòa thượng giảng và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Ngoài ra Hòa thượng còn giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử. 

Hòa thượng đã đi du hóa và thăm viếng các nước:

Cam-pu-chia (1956)
Ấn Độ, Tích Lan và Nhật Bản (1965)
Trung Quốc (1993)
Pháp (1994 - 2002)
Thụy Sĩ (1994)
Indonesia (1996)
Gia Nã Đại (1994 - 2002)
Hoa Kỳ (1994 - 2000 - 2001 - 2002)
Úc Châu (1996 - 2002).

Nguồn tin: thuong-chieu

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state