Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Thích Trí Tịnh ( 1917 – 2014) - được tôn xưng Sơ tổ Tông Tịnh Độ VN
Thích Trí Tịnh (thượng Trí hạ Tịnh; 1917 – 2014), thế danh Nguyễn Văn Bình, húy Nhựt Bình, tự Trí Tịnh, hiệu Thiện Chánh, bút hiệu Hân Tịnh tỳ kheo;[1] là một nhà sư thuộc dòng Lâm Tế gia phổ đời thứ 41 tại Việt Nam, từng là Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch UBTW Mặt trật Tổ quốc Việt Nam. Hòa thượng là người có công rất lớn trong việc điều hành và phát triển giáo hội Phật giáo Việt Nam phát triển, là bậc tùng lâm của giáo hội. Ngài đồng thời cũng là một cao tăng Việt Nam đã có công phiên dịch Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa từ bản chữ Hán (do Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn) ra tiếng Việt, cùng nhiều bộ kinh khác, đồng thời ông cũng nổi tiếng qua việc truyền bá và phát triển pháp môn Tịnh Độ tại Việt Nam và được hàng tín đồ tôn xưng là Sơ tổ của Tông Tịnh Độ Việt Nam.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:432

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Thích Trí Tịnh ( 1917 – 2014) - được tôn xưng Sơ tổ Tông Tịnh Độ VN

Thích Trí Tịnh

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hòa thượng
Thích Trí Tịnh
釋智淨
Pháp danh Nhựt Bình 日平
Pháp tự Trí Tịnh 智淨
Pháp hiệu Thiện Chánh 善正
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáo Phật giáo
Tông phái Lâm Tế tông
Xuất gia chùa Vạn Linh
Tịnh BiênAn Giang
Thụ giới Sa di
1941
chùa Quốc Ân
HuếThừa Thiên Huế
  Tỳ kheo và Bồ Tát
19 tháng 6 năm 1945
chùa Long An
Sa ĐécĐồng Tháp
Chủ tịch Hội đồng Trị sự
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Nhiệm kỳ
1984 – 28 tháng 3 năm 2014
Tiền nhiệm HT. Thích Trí Thủ
Kế nhiệm HT. Thích Thiện Nhơn
Phó pháp chủ, Giám luật
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Nhiệm kỳ
1992 – 28 tháng 3 năm 2014
Pháp chủ

Danh sách[hiện]

Tiền nhiệm HT. Thích Đôn Hậu
Kế nhiệm HT. Thích Trí Quảng
Trụ trì
Chùa Linh Sơn
Nhiệm kỳ
1951 – 1954
Kế nhiệm Tịnh Viên
Vị trí Vũng TàuBà Rịa – Vũng Tàu
Viện trưởng
Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm
Nhiệm kỳ
1971 – 1991
Tiền nhiệm thành lập
Phó viện trưởng Thích Bửu Huệ
Địa chỉ Chùa Huệ Nghiêm, quận Bình TânThành phố Hồ Chí Minh
Thông tin cá nhân
Sinh  
Thế danh Nguyễn Văn Bình
Ngày sinh 17 tháng 10, 1917
Nơi sinh Mỹ An Hưng ALấp VòĐồng Tháp
Mất  
Ngày mất 28 tháng 3, 2014 (96 tuổi)
Nơi mất chùa Vạn Đức
Thủ ĐứcThành phố Hồ Chí Minh
An nghỉ  
Ngày an táng 3 tháng 4 năm 2014
Nơi an táng Bảo tháp Phù Thi, chùa Vạn Đức
Thủ ĐứcThành phố Hồ Chí Minh
Thân quyến  
Cha Nguyễn Văn Cân
Mẹ Nguyễn Thị Truyện
Quốc tịch  Việt Nam
Trao tặng  Huân chương Hồ Chí Minh
 Huân chương Độc lập hạng nhất
 Huân chương Đại đoàn kết dân tộc
 Cổng thông tin Phật giáo

Thích Trí Tịnh (thượng Trí hạ Tịnh1917 – 2014), thế danh Nguyễn Văn Bình, húy Nhựt Bình, tự Trí Tịnh, hiệu Thiện Chánh, bút hiệu Hân Tịnh tỳ kheo;[1] là một nhà sư thuộc dòng Lâm Tế gia phổ đời thứ 41 tại Việt Nam, từng là Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch UBTW Mặt trật Tổ quốc Việt Nam. Hòa thượng là người có công rất lớn trong việc điều hành và phát triển giáo hội Phật giáo Việt Nam phát triển, là bậc tùng lâm của giáo hội. Ngài đồng thời cũng là một cao tăng Việt Nam đã có công phiên dịch Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa từ bản chữ Hán (do Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn) ra tiếng Việt, cùng nhiều bộ kinh khác, đồng thời ông cũng nổi tiếng qua việc truyền bá và phát triển pháp môn Tịnh Độ tại Việt Nam và được hàng tín đồ tôn xưng là Sơ tổ của Tông Tịnh Độ Việt Nam.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]

Hòa thượng Thích Trí Tịnh sinh ngày 2 tháng 9 năm Đinh Tỵ (17 tháng 10 năm 1917) tại làng Mỹ An Hưng[1] (tục gọi là Cái Tàu Thượng) thuộc quận Châu Thànhtỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) trong một gia đình nông dân, và tin theo đạo Phật. Cha là ông Nguyễn Văn Cân và mẹ là bà Nguyễn Thị Truyện. Nhà sư là người con út trong gia đình có 6 anh chị em gồm 3 trai và 3 gái.

Nguyễn Văn Bình (về sau là HT Thích Trí Tịnh) từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ (lên 3 tuổi thì mất cha, đến 7 tuổi thì mất mẹ), nên sống với người anh thứ ba (ông Nguyễn Văn Đặng nay đã qua đời, người anh thứ tư mất sớm).

Năm 10 tuổi, Nguyễn Văn Bình mới vào lớp năm (tương đương lớp 1 ngày nay), đến năm 15 tuổi thì học xong lớp đệ thất (tương đương lớp 6 ngày nay), rồi sang học chữ Hán với người chú và học nghề thuốc Bắc với người anh họ,...

Xuất gia học đạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thấy cảnh lục đục của gia đình anh chị nên Nguyễn Văn Bình có ý xuất ly thế tục, và người thanh thiếu niên ấy bắt đầu tìm hiểu các tôn giáo như đạo Thiên Chúađạo Cao ĐàiThông Thiên Học,... và đặc biệt quan tâm đến đạo Phật.

Năm 18 tuổi, Nguyễn Văn Bình bắt đầu ăn chay trường và tu theo đạo Phật. Năm 1937 (21 tuổi ta), ông cùng người bạn lên Sài Gòn lập nghiệp, ở chung nhà trọ. Trước đó, tuy ông đã có ý định xuất thế nhưng vì còn người chị thứ sáu chưa lập gia đình nên không nỡ bỏ đi. Nay người chị ấy đã yên bề gia thất, nên ông yên tâm thực hiện ước nguyện của mình.

Sau đó, ông đi lên núi Cấm (Tịnh BiênAn Giang), đến chùa Lá (sau trùng tu và đổi tên là Vạn Linh), xin Hòa thượng Trụ trì Thích Thiện Quang (thượng Thiện hạ Quang, thế danh Nguyễn Hồng Xứng; 1895-1953)[a][3] cho xuất gia, và được chấp thuận.

Trong quảng thời gian tu khổ hạnh, nhà sư Thích Trí Tịnh (tức Nguyễn Văn Bình) đọc được tạp chí Từ Bi Âm, nên có ý nguyện học thêm kinh luật. Vì vậy, cuối năm 1939, nhà sư xin phép thầy xuống núi.

Đến Sài Gòn, nhà sư Thích Trí Tịnh cùng nhà sư Thiện Phước ra núi Thị Vải (nay thuộc Bà Rịa), tìm chỗ thích hợp để cất am tu (gần chùa Linh Sơn Bửu Thiền). Nhưng vì sơn lam chướng khí, nên chẳng mấy hôm, cả hai nhà sư đều bị bệnh sốt rét. Không kham nổi, hai người cùng xuống chân núi. nhà sư Thiện Phước thì tá túc nơi am của bà Năm, còn nhà sư Trí Tịnh thì tá túc nơi hang đá của bà Bảy. Vài hôm sau, nhà sư Thiện Phước tịch, nhà sư Trí Tịnh liền về Sài Gòn tá túc trong chùa Tịnh Độ ở Gò Vấp và tìm thầy trị bệnh.

Sau khi hết bệnh, nghe theo lời khuyên, nhà sư khởi ý đi Huế để tu học. Trên đường đi, nhà sư có vào tu học tại chùa Liên Tôn ở Bình Định khoảng 3 tháng.[4] Ra đến Huế, nhà sư được nhận vào học lớp Sơ cấp Phật học (và được cấp học bổng) tại chùa Tây Thiên.[b]

Đầu năm 1941, nhà sư Trí Tịnh thọ giới Sa di tại chùa Quốc Ân ở Huế.[2]

Sau đó, nhà sư tiếp tục học lên Trung đẳng Phật học (tốt nghiệp vào cuối năm 1942) và Cao đẳng Phật học (tốt nghiệp năm 1945). Cũng năm này (1945), trường An Nam Phật học dời vào Tòng Lâm Kim Sơn ở Huế, nhà sư Trí Tịnh được cử làm Giám viện Quản đốc trường.

Hành đạo và hoạt động trước năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]

Kế đó, vì nạn đói ở Huế và ở cả miền Bắc, nhà trường quyết định chuyển Tăng sinh (Sơ đẳng và Trung đẳng khoảng 40 vị) vào Nam và giao cho nhà sư Trí Tịnh quản lý. Vào Nam, đoàn Tăng sinh tạm ở trong chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), còn nhà sư Trí Tịnh thì tạm ở trong chùa Kim Huê (Sa Đéc). Ngày 19 tháng 6 năm 1945, nhà sư Trí Tịnh được thọ Tỳ kheo và Bồ Tát giới tại Đại Giới đàn tổ chức tại chùa Long An ở Sa Đéc.[c][5]

Đến khi Cách mạng tháng Tám (1945) nổ ra, nhà trường vừa kể trên (khi ấy có tên là Lưỡng Xuyên Phật học) bị phân tán, nhà sư Trí Tịnh và nhà sư Thích Thiện Hoa (1918 – 1973 bèn về chùa Phật Quang ở quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long) lập trường Phật học Phật Quang, và khai giảng vào cuối năm. Khi ấy, nhà sư Thích Thiện Hoa làm Giám đốc, còn nhà sư Trí Tịnh làm Đốc giáo kiêm Giáo thọ.

Cuối năm 1946, an ninh ở địa phương không được ổn định, nhà trường phải dời về tạm trú trong chùa Vạn Phước ở Phú Lâm (Chợ Lớn).[d][4]

Năm 1948, nhà sư Trí Tịnh cùng nhà sư Thích Huyền Dung (19182014) thành lập trường Liên Hải Phật học tại chùa Vạn Phuớc. Khi ấy, nhà sư Trí Tịnh làm giám đốc, nhà sư Thích Huyền Dung làm đốc giáo.[6] Và Hòa thượng là một trong những vị giáo thọ sư của rất nhiều vị hòa thượng như Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư Thích Thanh Từ, Thiền sư Thích Từ Thông,... là một trong những hàng hậu học của ngài thế hệ thứ nhất và tiếp đó là HT Thích Minh Cảnh, HT Thích Trí Quảng... tại các trường Phật học trước 1975 như Phật học đường Huệ Nghiêm.

Năm 1950, Hòa thượng Trí Tịnh có bệnh phải đi dưỡng bệnh và tu ở chùa Linh Sơn (Vũng Tàu).

Năm 1951, nhà sư Trí Tịnh cùng nhà sư Thích Thiện Hòa sáp nhập 3 Phật học đường là Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành Phật học đường Nam Việt, đặt trụ sở đặt tại chùa Ấn Quang (nay ở Quận 10Thành phố Hồ Chí Minh). Từ năm 1951 – 1956, nhà sư Trí Tịnh tham gia Ban Giảng huấn và giảng dạy cho lớp Cao đẳng Phật học.[6] Cũng trong năm này, nhà sư nhận lời làm trụ trì chùa Linh Sơn.[7]

Năm 1952, Giáo hội Tăng Già Nam Việt được thành lập ở Sài Gòn, nhà sư Trí Tịnh được mời giữ chức Trưởng ban Giáo dục và Trưởng ban Giám Luật. Kế đó, Giáo hội Tăng Già toàn quốc được thành lập, nhà sư được cử vào các chức vụ: Trưởng ban Giáo dục, Phó Trị sự, Ủy viên phiên dịch Tam Tạng. Vì nhận nhiều trọng trách, nên tháng 4 năm 1954, nhà sư trao quyền trụ trì chùa Linh Sơn lại cho nhà sư Tịnh Viên.

Ngày 16 tháng 3 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1954), nhà sư Trí Tịnh cho lập chùa Vạn Đức ở Thủ Đức (nay tọa lạc tại số 234 đường Tô Ngọc Vân, phường Tam Phúquận Thủ Đức). Tiền thân ngôi chùa là nhà ở của một tín đồ hiến tặng, được sửa chữa lại làm chùa. Kể từ đó, nhà sư thường trụ ở đây cho đến ngày viên tịch (2014).[8]

Năm 1955, nhà sư Thích Trí Tịnh thành lập Hội Cực Lạc Liên Hữu tại chùa Vạn Đức, và khuyên Tăng chúng thực hành tu theo pháp môn Tịnh Độ.[9] Khi ấy, nhà sư Trí Tịnh làm Liên trưởng, và nhà sư Thích Huệ Hưng làm Liên phó. Cũng trong năm này, nhà sư đảm nhiệm cương vị Giáo thọ A Xà Lê Đại giới đàn Từ Hiếu (Huế).

Năm 1957, nhà sư Trí Tịnh được Đại hội Giáo hội Tăng già Nam Việt cử làm Trị sự phó và kiêm Trưởng ban Giáo dục Giáo hội Tăng già Nam Việt. Đồng thời, hợp tác với nhà sư Thích Thiện Hoa, nhà sư Thích Thiện Hòa mở các khóa Như Lai Sứ Giả tại chùa Pháp Hội, chùa Tuyền Lâm, chùa Dược Sư... để đào tạo cán bộ Trụ trì và Giảng sư cho Giáo hội [6].

Năm 1959, trong Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam kỳ II diễn ra vào ngày 10, 11 tháng 9 năm 1959 tại chùa Ấn Quang, nhà sư Trí Tịnh được cử làm Trị sự Phó Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam. Cũng trong năm này, nhà sư làm Tuyên Luật sư Đại giới đàn Hải Đức (Nha Trang).

Năm 1960 – 1962, nhà sư Trí Tịnh làm Giới Luật sư trong các Đại Giới đàn tổ chức tại các chùa Ấn Quang, Pháp Hội,... để truyền trao giới pháp cụ túc cho chư Tăng.

Năm 1962, nhà sư Trí Tịnh được cử làm Phó Viện trưởng Phật học Viện Trung phần.

Năm 1964, nhà sư Trí Tịnh làm Trưởng đoàn Đại biểu Giáo hội Tăng già Nam Việt tham dự Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, được tổ chức tại chùa Xá Lợi trong các ngày 30, 31 tháng 12 năm 1963 và 1 tháng 1 năm 1964 để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN). Tại Đại hội này, nhà sư được cử làm Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự [6]. Cũng trong năm này, nhà sư Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự (Sài Gòn).

Năm 1965, nhà sư Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị Yết ma trong Tiểu Giới đàn Quảng Đức tại Phật học viện Huệ Nghiêm (nay ở huyện Bình ChánhThành phố Hồ Chí Minh) và Tuyên Luật sư Đại Giới đàn ở chùa Từ Hiếu (Huế).

Năm 1966, nhà sư Trí Tịnh là Tuyên Luật sư Đại Giới đàn Quảng Đức tại Phật học viện Huệ Nghiêm. Cũng trong năm này, tại Đại hội kỳ II Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, nhà sư được suy cử vào cương vị Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.

Năm 1968, nhà sư Trí Tịnh tham gia Ban Giảng huấn Phật học viện Huệ Nghiêm và giảng dạy Phật pháp cho lớp Chuyên khoa Phật học trong ba năm.

Năm 1969, nhà sư Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị Tuyên Luật Sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm.

Năm 1970, nhà sư Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị Khoa trưởng Phân khoa Phật học tại Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn (cho đến năm 1975).

Năm 1971, sau khi Giáo hội thành lập Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, nhà sư Trí Tịnh được cử làm Viện trưởng (cho đến năm 1991).

Năm 1973, trong phiên họp của Hội đồng Giáo phẩm Trung ương, nhà sư Trí Tịnh được cử làm Thành viên Hội đồng Giáo phẩm Trung ương. Vào ngày 5 tháng 7 năm ấy, nhà sư Trí Tịnh được cử làm Chủ tịch Hội đồng phiên dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cũng trong năm này, tại Đại hội Giáo hội Trung ương kỳ 4, nhà sư Trí Tịnh được tấn phong hòa thượng và được suy cử đảm nhiệm cương vị Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN [6].

Cuối năm 1974, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được Hòa thượng Thích Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc.

Năm 1975, Hòa thượng Trí Tịnh được Hội đồng Giáo phẩm Trung ương cử làm Trưởng ban Kiến thiết Pháp Bảo Viện tại xã Linh Xuân Thôn ở Thủ Đức.

Hành đạo và hoạt động sau năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]

Một bài kệ niệm Phật của HT Thích Trí Tịnh được khắc trên đá, dựng trong khuôn viên chùa Vạn Đức

Năm 1976, Hòa thượng Thích Trí Tịnh được mời làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đầu năm Canh Thân (1980), trong phiên họp hiệp thương của chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, cư sĩ của các tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh để thảo luận chương trình thống nhất Phật giáo Việt Nam. Kết quả một Ban Vận động Thống nhất Phật giáo ra đời, do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban và Hòa thượng Trí Tịnh được cử làm Phó Trưởng ban Vận động kiêm Trưởng Tiểu ban Nội dung. Cũng trong năm này, hòa thượng được cử làm Tuyên Luật Sư và Chánh Chủ khảo trong Đại Giới đàn Thiện Hòa, tổ chức tại chùa Ấn Quang.

Sau đó, tại Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội, từ ngày 4 – 7 tháng 11 năm 1981, Hòa thượng Trí Tịnh được Đại hội cử làm Thành viên Hội đồng Chứng minh, và cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) vừa được thành lập.

Năm 1982, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ I, Hòa thượng Trí Tịnh được cử kiêm làm Trưởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (cho đến năm 1987).

Từ Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II (1983) cho đến Đại hội VII (2009), Hòa thượng Trí Tịnh được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch, rồi làm Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương của Mặt trận.

Năm 1984, sau khi Hòa thượng Thích Trí Thủ (Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN) viên tịch vào tháng 4 năm 1984, Hòa thượng Trí Tịnh được cử làm Quyền Chủ tịch Hội đồng Trị sự, rồi Chủ tịch Hội đồng Trị sự nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo cho ngày viên tịch (tháng 3 năm 2014).

Năm 1984 cho đến năm 2013, Hòa thượng Trí Tịnh được mời làm Đàn Đầu Hòa thượng Đại Giới đàn đầu tiên, và những Giới đàn tiếp theo của Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức tại chùa Ấn Quang.

Năm 1984, Hòa thượng Trí Tịnh được cử làm Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.[10] Tháng 12 năm ấy, tại Đại hội Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 4, Hòa thượng được Đại hội cử làm Phó Chủ tịch của tổ chức này.

Năm 1992, tại Đại hội Kỳ III của Hội đồng Trị sự GHPGVN, Hòa thượng Trí Tịnh được suy tôn lên ngôi vị Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Năm 1994, Hòa thượng Trí Tịnh được Đại hội lần thứ 8 Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tín nhiệm bầu vào cương vị Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Năm 2004, Hòa thượng Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị Đường đầu Hòa thượng Đại giới đàn Trí Tấn do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bình Dương tổ chức.

Năm 2005, Hòa thượng Trí Tịnh đảm nhiệm cương vị Đường đầu Hòa thượng Đại giới đàn Thiện Hòa 4 do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức.[e][2]

Viên tịch[sửa | sửa mã nguồn]

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã viên tịch vào lúc 9 giờ 15 phút ngày 28 tháng 3 năm 2014 (28 tháng 2 năm Giáp Ngọ) tại chùa Vạn Đức ở Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh), trụ thế 98 năm, hạ lạp 69 năm. Lễ truy điệu được cử hành sau đó và thỉnh kim quan chứa nhục thân Đại lão Hòa thượng nhập Bảo tháp Phù Thi (xây năm 1993) trong khuôn viên chùa Vạn Đức.

Biên soạn và phiên dịch[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa Vạn Đức do HT Thích Trí Tịnh khai sơn

Mặc dù bận rộn nhiều công việc cho Giáo hội, Hòa thượng vẫn dành thời gian để dịch kinh và giảng kinh. Những tác phẩm Hòa thượng đã biên soạn, phiên dịch và phổ biến như:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: trọn bộ 7 quyển
  • Kinh Hoa Nghiêm: 80 quyển
  • Kinh A Di Đà
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: 40 quyển
  • Kinh Đại Bát Nhã: 27 quyển
  • Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển
  • Kinh Đại Bảo Tích + Đại Tập: 120 quyển
  • Kinh Phổ Hiền hạnh nguyện: 1 quyển
  • Kinh Địa Tạng bản nguyện: 3 quyển
  • Kinh Tam Bảo: 01 quyển
  • Tỳ kheo giới : 01 quyển
  • Bồ Tát giới bản: 01 quyển
  • Kinh Pháp Hoa cương yếu: Tóm tắt
  • Kinh Pháp Hoa thông nghĩa: Tóm tắt
  • Cực Lạc liên hữu tập: 01 quyển
  • Đường về Cực Lạc: Trọn bộ
  • Ngộ tính luận: 01 quyển, v.v...

Công xây dựng (sơ lược)[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa Vạn Linh được HT Thích Trí Tịnh cho trùng tu

Ngày 16 tháng 3 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1954), Hòa thượng Trí Tịnh cho lập chùa Vạn Đức ở Thủ Đức (nay tọa lạc tại số 502 đường Tô Ngọc Vân, phường Tam Phúquận Thủ Đức).

Năm 1995, Hòa thượng Trí Tịnh đã cho khởi công xây dựng lại chùa Vạn Linh trên đỉnh núi Cấm thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

Năm 2000, với tư cách Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, Hòa thượng Trí Tịnh đã ký quyết định thông qua dự án và bổ nhiệm Ban Trùng tu cơ sở Văn phòng 2 Trung ương Giáo hội tại Thiền viện Quảng Đức ở Quận 3Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2001, Hòa thượng Trí Tịnh cho trùng tu một số hạng mục tại chùa Vạn Đức, như: Giảng đường, Phật đài Quan Âm, Thư viện, Thiền thất, v.v...

Năm 2002, Hòa thượng Trí Tịnh là Chủ đầu tư xây dựng lại cơ sở Văn phòng 2 Trung ương Giáo hội (Thiền viện Quảng Đức).

Năm 2004, Hòa thượng Trí Tịnh khởi công xây dựng lại Chánh điện, Nhà Tổ chùa Vạn Đức với quy mô lớn.[6]

Chức danh và tặng thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá trình hành đạo và hoạt động, Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã từng là: Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN, Trưởng ban Tăng sự TƯ GHPGVN, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ VN TPHCM, Viện chủ chùa Vạn Đức, Viện chủ chùa Vạn Linh.

Thiền viện Quảng Đức, nơi HT Thích Trí Tịnh có nhiều đóng góp

Với những công đức mà Đại lão Hòa thượng đã đóng góp cho "Đạo Pháp và Dân tộc", Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã được tặng thưởng:[11]

Nhận xét (sơ lược)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Hòa thượng Thích Quảng Ba tại Úc cho là Hòa thượng Thích Trí Tịnh là một trong những số ít các vị tăng lữ có "công lao phiên dịch Kinh điển Đại thừa nhiều nhất", "giảng dạy và truyền bá pháp môn tịnh độ trên toàn cõi Việt Nam", và "có công đức lớn đối với nền Phật học Việt Nam", "để lại di sản rất lớn cho nền Phật học và cho sự tu hành thanh cao đạo hạnh của những bậc cao tăng hiếm có trong thời gian gần đây".
  • Trích trong báo Nhân dân:
...Cuộc đời của Hòa thượng (Thích Trí Tịnh) là một tấm gương sáng về trí đức và giáo dục cho tăng, ni nhiều thế hệ. Với tính điềm đạm và đức nhẫn nại của một bậc thực học, chân tu khả kính và với những đóng góp to lớn cho Đạo pháp - Dân tộc, Hòa thượng luôn có được cảm tình đặc biệt trong lòng Phật tử Việt Nam...[2]

Một vài hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Một vài hình ảnh trong lễ tang Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh tại chùa Vạn Đức:

  • Chùa Vạn Đức trong một ngày lễ tang.

    Chùa Vạn Đức trong một ngày lễ tang.

  •  
  • Chuẩn bị đưa kim quan HT Thích Trí Tịnh đi nhập bảo tháp.

    Chuẩn bị đưa kim quan HT Thích Trí Tịnh đi nhập bảo tháp.

  •  
  • Đưa linh vị HT Thích Trí Tịnh trở về chính điện sau khi kim quan đã nhập bảo tháp.

    Đưa linh vị HT Thích Trí Tịnh trở về chính điện sau khi kim quan đã nhập bảo tháp.

  •  
  • Một số ít trong vô số hoa tang.

    Một số ít trong vô số hoa tang.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Báo Nhân dân điện tử ghi tên là Hòa thượng Thích Hồng Xứng.[2]
  2. ^ Chùa Tây Thiên nằm ở góc Đông Nam của đàn Nam Giao, thuộc địa phận xã Thủy Xuân ở Huế, do Hoà Thượng Lâm Tịnh, thuộc đời 41 dòng Lâm Tế sáng lập năm 1902.
  3. ^ Báo Nhân dân ghi năm 1946.[2]
  4. ^ Theo báo Nhân dân, thì chùa Vạn Phước ở xã Bình Trị Đông, quận Long Hưng Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh)[2]
  5. ^ Tuyên bạch trên website Giáo hội Phật giáo Việt Nam ghi khác:...Đặc biệt, Hòa thượng đã được Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Bà Rịa – Vũng Tàu cung thỉnh đảm nhiệm cương vị Hòa thượng Đàn đầu truyền giới Tỳ kheo tại các Đại giới đàn Thiện Hòa I (1993), Thiện Hòa III (2000), Thiện Hòa IV (2003), Thiện Hòa V (2006), Thiện Hòa VII (2013).[6]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. a b Thích Trí Tịnh 2006, tr. 9
  2. a b c d e f “Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh từ trần”Nhân dân điện tử. ngày 29 tháng 3 năm 2014.
  3. ^ Hoằng Tri 2006, tr. 12
  4. a b Thích Trí Tịnh 2006, tr. 19
  5. ^ Thích Trí Tịnh 2006, tr. 22
  6. a b c d e f g “Tóm tắt tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Tịnh”Giáo hội Phật giáo Việt Nam. ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  7. ^ Thích Trí Tịnh 2006, tr. 23
  8. ^ Hoằng Tri 2006, tr. 17
  9. ^ Thích Trí Tịnh 2006, tr. 25
  10. ^ Thích Trí Tịnh 2006, tr. 28
  11. ^ Hoàng Anh Tuấn (ngày 29 tháng 3 năm 2014). “Tổ chức trang trọng lễ viếng Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh”Vietnam+.

Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • Thích Trí Tịnh (2006). Hương sen Vạn Đức. Nhà xuất bản Phương Đông.
  • Hoằng Tri (2006). Kỷ yếu trùng tu chùa Vạn Đức và Vạn Linh. Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
ẩn

 Giáo hội Phật giáo Việt Nam 

Pháp chủ
Hội đồng Chứng minh

Thích Đức Nhuận  • Thích Tâm Tịch  • Thích Phổ Tuệ  • Thích Trí Quảng

Chủ tịch
Hội đồng Trị sự

Thích Trí Thủ  • Thích Trí Tịnh  • Thích Thiện Nhơn

Thể loại Thể loại  Cổng thông tin

Thể loại

.

GN - Hòa thượng Thích Hoằng Tri, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.Thủ Đức, trụ trì chùa Vạn Đức, là một trong những đệ tử thân cận, gắn bó nhiều năm tháng với cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), trong nếp thiền môn thường ngày ở Vạn Đức thường gọi là “Sư ông”.

TIN LIÊN QUAN

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 1

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1144 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Người thực hiện câu chuyện này, phóng viên Báo Giác Ngộ đã có dịp nghe những chia sẻ thấm đẫm đạo tình từ Hòa thượng Thích Hoằng Tri về bậc Tôn sư khả kính của mình nhân dịp tưởng niệm húy nhật lần thứ 6 của ngài.

Trong không gian yên tĩnh của Vô y viện - nơi Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh tịnh tu lúc sinh tiền, sau bao nhiêu năm vẫn được hàng môn đồ đệ tử cẩn trọng gìn giữ như một chốn lưu tích của bậc thầy mô phạm, Hòa thượng Thích Hoằng Tri hồi tưởng:

- Tôi vào chùa đầu năm 1970. Tính đến năm 2014, khi Sư ông chúng tôi viên tịch, chừng đó khoảng thời gian tôi đều trụ xứ tại chùa Vạn Đức. Chỉ riêng từ năm 1995 đến 2003, trong thời gian bắt đầu trùng tu chùa Vạn Linh (An Giang), tôi phải đi đi về về coi sóc công trình ở đó nhiều hơn, nhưng không có ngày rằm và 30 hàng tháng nào mà tôi vắng mặt ở Vạn Đức. Có thể nói, xuyên suốt thời gian từ khi bắt đầu bước chân vào chùa, tôi đều được ở gần Sư ông.

Từ khi tôi được chánh thức nhận vào chùa, tôi đã gọi Hòa thượng Vạn Đức bằng Sư ông. Sư ông có bốn lớp đệ tử xuất gia, ba lớp đầu là chữ Trí, chữ Tịnh và chữ Minh, từ năm 1960 đổ về sau là chữ Hoằng. Cũng do vô chùa sau này, nên tôi mới gọi Thầy mình là Sư ông. Trừ những khi đi họp hay đi dạy, phần lớn thời gian ngài chỉ ở Vạn Đức để tĩnh tu, coi sóc, hướng dẫn việc tu học của chúng đệ tử.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 2
Hòa thượng Thích Hoằng Tri (bên trái) tiếp nhận lời dạy của Hòa thượng Tôn sư trong công việc hàng ngày ở chùa - Ảnh: Tư liệu Vạn Thành
Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 3

* Ngay từ những ngày đầu mới vào chùa, Hòa thượng đã có cơ duyên được thân cận cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng có thể chia sẻ ấn tượng đầu tiên của mình đối với Sư ông?

- Đầu tiên, quý Thầy cử tôi làm hương đăng, sau đó sung vô Ban thị giả. Ban thị giả có đến 6 người, huynh Hoằng Pháp phụ trách chính, bưng cơm nước, gần gũi Sư ông nhiều hơn, số còn lại chia ra làm các công tác ở khu thất Sư ông. Riêng tôi phụ trách quét dọn các tầng phía trên. Lúc mới ra làm, nghe nói Sư ông khó tánh lắm nên tôi cũng chưa dám gần gũi. Dần dần, có đôi khi huynh Hoằng Pháp đi vắng, tôi thay thế bưng cơm. Rồi có khi Sư ông sai làm việc lặt vặt, tôi thấy Sư ông cũng không khó mấy.

Quen dần, Sư ông kêu tôi làm những việc có tính cách chuyên môn hơn, mặc dù khi ở nhà tôi chẳng biết gì về mộc, về hồ, về điện, về nước. Vậy mà khi ở gần Sư ông, bất cứ việc gì trong các lĩnh vực đó, tôi đều làm được và làm rất tốt. Làm việc, đôi khi tôi và Sư ông cùng làm. Nói là cùng làm, thực sự là Sư ông chỉ cho tôi làm. Cụ thể như cái bồn trồng cây mai lâu năm ngoài tháp Sư ông là tôi và Sư ông cùng xây, không có một người thợ nào cả. Vì vậy mà giữa tôi và Sư ông không có gì ngăn ngại nữa, khoảng cách Thầy trò gần như không còn. Sư ông đối với tôi thân mật như cha với con và còn hơn thế nữa.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 4
Mặt trước chánh điện chùa Vạn Đức trùng tu lần thứ nhất (1963) - Ảnh: Tư liệu Vạn Thành

* Trong vô số những kỷ niệm với Sư ông, Hòa thượng có kỷ niệm nào vui hay đáng nhớ nhất?

- Kỷ niệm đặc biệt đáng nhớ nhất là lần tôi làm thị giả theo Sư ông dự Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc kỳ III tại Hà Nội. Sư ông giới thiệu tôi với quý Hòa thượng miền Bắc: “Thầy nầy là tri sự của chùa, hôm nay theo làm thị giả cho tôi cũng được lắm. Thầy làm cũng giỏi mà ăn cũng nhiều nên được mệnh danh là ‘Thầy Ba Tô’”. Nghĩ hơi mắc cỡ mà cũng thấy vui vui.

* Từng là trụ trì chùa Vạn Linh, tri sự rồi kế thế trụ trì chùa Vạn Đức; đảm nhiệm những công việc quan trọng từ rất trẻ, lời dạy của Sư ông có ảnh hưởng như thế nào đối với Hòa thượng trong việc tu học và hành đạo, thưa Hòa thượng?

- Như đã nói, tôi xuất gia năm 1970, năm 1971 thọ giới Sa-di, đến năm 1973 chùa có chút biến cố. Không biết lý do gì mà quý thầy Tỳ-kheo đi đâu hết, chỉ còn lại thầy Hoằng Thông và huynh đệ Sa-di ngũ giới chúng tôi. Thầy Hoằng Thông đảm nhiệm tri sự khoảng một tháng rồi Sư ông giao cho tôi làm. Lúc này tôi mới chỉ là Sa-di mà chúng lúc đó cũng trên 50 người. Tình cảnh khiến tôi hết sức hoang mang, nhưng để Sư ông an tâm, tôi miễn cưỡng nhận làm. Ban đầu cũng khó khăn lắm, dần rồi cũng quen. Tấm gương thân giáo ít ăn, ít ngủ, siêng năng thời khóa của Sư ông đã làm mẫu mực cho tôi thực hành, rồi dần dần, đại chúng tùy thuận, mọi việc đi vào ổn định.

Đến năm 1975, trong tình hình chung của đất nước, tuy khó khăn về vật chất lẫn tinh thần, nhưng với sự che chở của Sư ông, chúng tôi cũng sớm thích nghi với hoàn cảnh. Cho đến năm 1995, Sư ông cử tôi trụ trì, trông coi việc trùng tu lại chốn Tổ Vạn Linh với lời dạy tâm huyết: “Phàm làm việc gì mà hết lòng vì Tam bảo thì được chư Hộ pháp gia hộ, mọi việc sớm thành tựu”. Chúng tôi nương theo đó mà thật hành, bước qua những đoạn đường khó khăn.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 5
Hòa thượng Thích Trí Quảng bên Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ngày ấy
Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 6

* Là đệ tử của bậc danh sư, giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội, vậy có bao giờ Hòa thượng gặp phải những áp lực hay đối diện với chướng duyên không, thưa Hòa thượng?

- Đương nhiên là có rất nhiều, nhất là đối với một thân phận như tôi. Vào chùa được học gia giáo với quý Thầy lớn, sau đó được dự lớp của Sư ông, sau nữa đi theo học những giờ Sư ông dạy ở Huệ Nghiêm, Vạn Hạnh v.v... Lãnh chúng quá sớm, kinh nghiệm ít ỏi, tôi luôn nương vào bổn hoài và lời dạy của Sư ông: “Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì theo tới đâu thì tới”. Bởi vì muốn “khoan hồng tha thứ” phải có từ bi và tùy thuận, “biết thiện thì theo tới đâu thì tới” phải có trí huệ và nhẫn nhục. Nhờ đó mà với tôi, áp lực cũng nhẹ đi, chướng duyên vượt qua được.

* Hòa thượng có nhắc tới “bổn hoài” của cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh mà Hòa thượng hiện đang sống trong đó, Hòa thượng có thể chia sẻ thêm về điều đó?

- Bổn hoài lớn nhất của Sư ông chúng tôi là truyền bá pháp môn Tịnh độ và làm sao dịch hết Đại tạng Đại thừa cho Phật giáo Việt Nam.

Năm 1955, sau khi thành lập chùa Vạn Đức, Sư ông đã khai hội “Cực lạc Liên hữu” khuyến tấn mọi người niệm Phật cầu sanh Cực lạc với cẩm nang là quyển Đường về Cực lạc mà khi nhập thất ở Linh Sơn cổ tự Sư ông đã biên soạn. Năm 1975, Sư ông dự định khởi công xây dựng “Pháp Bảo Viện” ở Linh Xuân, Thủ Đức với mục đích tập hợp nhân tài có khả năng phiên dịch về một chỗ để tập trung trí huệ phiên dịch Đại tạng Đại thừa, nhưng rồi thời thế xoay vần, dự định ấy đành dang dở.

Với bổn hoài đó, khi có duyên tiếp xúc với đại chúng dù Tăng hay tục, Sư ông chỉ dạy ba điều rất là bình dị: Ăn chay, tụng kinh, niệm Phật. Sư ông dạy: “Ăn chay phải thiệt ăn chay, không ăn ngũ vị tân để tăng trưởng lòng từ bi. Tụng kinh Đại thừa để tăng trưởng trí tuệ. Niệm Phật phải đủ Tín - Nguyện - Hạnh để một đời này giải quyết được sanh tử luân hồi”. Hay: “Đời mạt pháp có nhiều dị kiến, nên những gì không đúng với kinh điển Đại thừa thì không nên nghe theo”.

Những lời dạy đó, tuy bình dị nhưng đôi lúc ngẫm lại, tôi thấy cả đời cũng chưa chắc đã làm xong. Về sau này, chúng tôi thường xuyên mở khóa niệm Phật và tổ chức tụng đọc kinh điển Đại thừa, đồng thời trợ duyên cho các tổ chức dịch thuật in ấn để thực hiện phần nào bổn hoài ấy của Tôn sư.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 7

* Mong Hòa thượng có thể chia sẻ thêm về những tâm nguyện đối với tứ chúng Vạn Đức trong việc tu học cũng như hành đạo?

Tôi luôn mong muốn các vị đã có duyên thọ ân giáo dưỡng của Sư ông, nhất là những đệ tử xuất gia đang còn tu tập ở Vạn Đức, Vạn Linh hay đã ra hoằng hóa ở các trú xứ khác, luôn nhớ đến bổn hoài của Sư ông mà cố gắng duy trì và phát triển. Mỗi người hãy là một Liên hữu siêng năng niệm Phật trong tất cả mọi oai nghi theo tinh thần bài “Kệ niệm Phật” mà Sư ông đã hướng dẫn cũng như sinh hoạt theo 10 tông chỉ mà Sư ông đã soạn ra khi lập hội “Cực lạc Liên hữu”. Trong tâm niệm của tôi, một người đệ tử nối gót Sư ông phải luôn cố gắng thiết thật tu hành (vì giải thoát sanh tử luân hồi), không môi miếm (quá lý tưởng cao xa không tương ưng với thực tế - PV).

Thuở sanh tiền, Sư ông còn có tâm nguyện kiến thiết ngôi tháp 13 tầng và Đức Phật A Di Đà cao 48m. Cho đến khi Sư ông viên tịch, tâm nguyện ấy vẫn còn dang dở. Gần đây, chúng tôi đã thiết lập dự án một ngôi chùa ngay trên quê hương Sư ông, trong đó có từ đường để thờ phượng tổ tiên, những bậc đã sanh thành ra ngài, phía trước ngôi chùa sẽ tôn trí tượng Phật bằng đá cao 48m mà bên trong là ngôi bảo tháp 13 tầng. Với ý nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, tôi mong rằng tất cả huynh đệ tứ chúng chung sức chung lòng để hoàn thành công trình cũng như bổn hoài của Sư ông, cũng như bằng sự tu học và hành đạo thiết thật, đền đáp phần nào thâm ân giáo dưỡng của bậc tôn sư.

* Cảm ơn Hòa thượng đã dành thời gian chia sẻ với Báo Giác Ngộ những câu chuyện thú vị về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh, bậc Thầy của nhiều thế hệ Tăng Ni, vị giáo phẩm lãnh đạo của Giáo hội và là một đại dịch giả, hành giả Đại thừa của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Hạnh Đăng/Báo Giác Ngộ thực hiện

GN - Hòa thượng Thích Hoằng Tri, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.Thủ Đức, trụ trì chùa Vạn Đức, là một trong những đệ tử thân cận, gắn bó nhiều năm tháng với cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), trong nếp thiền môn thường ngày ở Vạn Đức thường gọi là “Sư ông”.

TIN LIÊN QUAN

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 1

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1144 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Người thực hiện câu chuyện này, phóng viên Báo Giác Ngộ đã có dịp nghe những chia sẻ thấm đẫm đạo tình từ Hòa thượng Thích Hoằng Tri về bậc Tôn sư khả kính của mình nhân dịp tưởng niệm húy nhật lần thứ 6 của ngài.

Trong không gian yên tĩnh của Vô y viện - nơi Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh tịnh tu lúc sinh tiền, sau bao nhiêu năm vẫn được hàng môn đồ đệ tử cẩn trọng gìn giữ như một chốn lưu tích của bậc thầy mô phạm, Hòa thượng Thích Hoằng Tri hồi tưởng:

- Tôi vào chùa đầu năm 1970. Tính đến năm 2014, khi Sư ông chúng tôi viên tịch, chừng đó khoảng thời gian tôi đều trụ xứ tại chùa Vạn Đức. Chỉ riêng từ năm 1995 đến 2003, trong thời gian bắt đầu trùng tu chùa Vạn Linh (An Giang), tôi phải đi đi về về coi sóc công trình ở đó nhiều hơn, nhưng không có ngày rằm và 30 hàng tháng nào mà tôi vắng mặt ở Vạn Đức. Có thể nói, xuyên suốt thời gian từ khi bắt đầu bước chân vào chùa, tôi đều được ở gần Sư ông.

Từ khi tôi được chánh thức nhận vào chùa, tôi đã gọi Hòa thượng Vạn Đức bằng Sư ông. Sư ông có bốn lớp đệ tử xuất gia, ba lớp đầu là chữ Trí, chữ Tịnh và chữ Minh, từ năm 1960 đổ về sau là chữ Hoằng. Cũng do vô chùa sau này, nên tôi mới gọi Thầy mình là Sư ông. Trừ những khi đi họp hay đi dạy, phần lớn thời gian ngài chỉ ở Vạn Đức để tĩnh tu, coi sóc, hướng dẫn việc tu học của chúng đệ tử.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 2
Hòa thượng Thích Hoằng Tri (bên trái) tiếp nhận lời dạy của Hòa thượng Tôn sư trong công việc hàng ngày ở chùa - Ảnh: Tư liệu Vạn Thành
Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 3

* Ngay từ những ngày đầu mới vào chùa, Hòa thượng đã có cơ duyên được thân cận cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng có thể chia sẻ ấn tượng đầu tiên của mình đối với Sư ông?

- Đầu tiên, quý Thầy cử tôi làm hương đăng, sau đó sung vô Ban thị giả. Ban thị giả có đến 6 người, huynh Hoằng Pháp phụ trách chính, bưng cơm nước, gần gũi Sư ông nhiều hơn, số còn lại chia ra làm các công tác ở khu thất Sư ông. Riêng tôi phụ trách quét dọn các tầng phía trên. Lúc mới ra làm, nghe nói Sư ông khó tánh lắm nên tôi cũng chưa dám gần gũi. Dần dần, có đôi khi huynh Hoằng Pháp đi vắng, tôi thay thế bưng cơm. Rồi có khi Sư ông sai làm việc lặt vặt, tôi thấy Sư ông cũng không khó mấy.

Quen dần, Sư ông kêu tôi làm những việc có tính cách chuyên môn hơn, mặc dù khi ở nhà tôi chẳng biết gì về mộc, về hồ, về điện, về nước. Vậy mà khi ở gần Sư ông, bất cứ việc gì trong các lĩnh vực đó, tôi đều làm được và làm rất tốt. Làm việc, đôi khi tôi và Sư ông cùng làm. Nói là cùng làm, thực sự là Sư ông chỉ cho tôi làm. Cụ thể như cái bồn trồng cây mai lâu năm ngoài tháp Sư ông là tôi và Sư ông cùng xây, không có một người thợ nào cả. Vì vậy mà giữa tôi và Sư ông không có gì ngăn ngại nữa, khoảng cách Thầy trò gần như không còn. Sư ông đối với tôi thân mật như cha với con và còn hơn thế nữa.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 4
Mặt trước chánh điện chùa Vạn Đức trùng tu lần thứ nhất (1963) - Ảnh: Tư liệu Vạn Thành

* Trong vô số những kỷ niệm với Sư ông, Hòa thượng có kỷ niệm nào vui hay đáng nhớ nhất?

- Kỷ niệm đặc biệt đáng nhớ nhất là lần tôi làm thị giả theo Sư ông dự Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc kỳ III tại Hà Nội. Sư ông giới thiệu tôi với quý Hòa thượng miền Bắc: “Thầy nầy là tri sự của chùa, hôm nay theo làm thị giả cho tôi cũng được lắm. Thầy làm cũng giỏi mà ăn cũng nhiều nên được mệnh danh là ‘Thầy Ba Tô’”. Nghĩ hơi mắc cỡ mà cũng thấy vui vui.

* Từng là trụ trì chùa Vạn Linh, tri sự rồi kế thế trụ trì chùa Vạn Đức; đảm nhiệm những công việc quan trọng từ rất trẻ, lời dạy của Sư ông có ảnh hưởng như thế nào đối với Hòa thượng trong việc tu học và hành đạo, thưa Hòa thượng?

- Như đã nói, tôi xuất gia năm 1970, năm 1971 thọ giới Sa-di, đến năm 1973 chùa có chút biến cố. Không biết lý do gì mà quý thầy Tỳ-kheo đi đâu hết, chỉ còn lại thầy Hoằng Thông và huynh đệ Sa-di ngũ giới chúng tôi. Thầy Hoằng Thông đảm nhiệm tri sự khoảng một tháng rồi Sư ông giao cho tôi làm. Lúc này tôi mới chỉ là Sa-di mà chúng lúc đó cũng trên 50 người. Tình cảnh khiến tôi hết sức hoang mang, nhưng để Sư ông an tâm, tôi miễn cưỡng nhận làm. Ban đầu cũng khó khăn lắm, dần rồi cũng quen. Tấm gương thân giáo ít ăn, ít ngủ, siêng năng thời khóa của Sư ông đã làm mẫu mực cho tôi thực hành, rồi dần dần, đại chúng tùy thuận, mọi việc đi vào ổn định.

Đến năm 1975, trong tình hình chung của đất nước, tuy khó khăn về vật chất lẫn tinh thần, nhưng với sự che chở của Sư ông, chúng tôi cũng sớm thích nghi với hoàn cảnh. Cho đến năm 1995, Sư ông cử tôi trụ trì, trông coi việc trùng tu lại chốn Tổ Vạn Linh với lời dạy tâm huyết: “Phàm làm việc gì mà hết lòng vì Tam bảo thì được chư Hộ pháp gia hộ, mọi việc sớm thành tựu”. Chúng tôi nương theo đó mà thật hành, bước qua những đoạn đường khó khăn.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 5
Hòa thượng Thích Trí Quảng bên Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ngày ấy
Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 6

* Là đệ tử của bậc danh sư, giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội, vậy có bao giờ Hòa thượng gặp phải những áp lực hay đối diện với chướng duyên không, thưa Hòa thượng?

- Đương nhiên là có rất nhiều, nhất là đối với một thân phận như tôi. Vào chùa được học gia giáo với quý Thầy lớn, sau đó được dự lớp của Sư ông, sau nữa đi theo học những giờ Sư ông dạy ở Huệ Nghiêm, Vạn Hạnh v.v... Lãnh chúng quá sớm, kinh nghiệm ít ỏi, tôi luôn nương vào bổn hoài và lời dạy của Sư ông: “Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì theo tới đâu thì tới”. Bởi vì muốn “khoan hồng tha thứ” phải có từ bi và tùy thuận, “biết thiện thì theo tới đâu thì tới” phải có trí huệ và nhẫn nhục. Nhờ đó mà với tôi, áp lực cũng nhẹ đi, chướng duyên vượt qua được.

* Hòa thượng có nhắc tới “bổn hoài” của cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh mà Hòa thượng hiện đang sống trong đó, Hòa thượng có thể chia sẻ thêm về điều đó?

- Bổn hoài lớn nhất của Sư ông chúng tôi là truyền bá pháp môn Tịnh độ và làm sao dịch hết Đại tạng Đại thừa cho Phật giáo Việt Nam.

Năm 1955, sau khi thành lập chùa Vạn Đức, Sư ông đã khai hội “Cực lạc Liên hữu” khuyến tấn mọi người niệm Phật cầu sanh Cực lạc với cẩm nang là quyển Đường về Cực lạc mà khi nhập thất ở Linh Sơn cổ tự Sư ông đã biên soạn. Năm 1975, Sư ông dự định khởi công xây dựng “Pháp Bảo Viện” ở Linh Xuân, Thủ Đức với mục đích tập hợp nhân tài có khả năng phiên dịch về một chỗ để tập trung trí huệ phiên dịch Đại tạng Đại thừa, nhưng rồi thời thế xoay vần, dự định ấy đành dang dở.

Với bổn hoài đó, khi có duyên tiếp xúc với đại chúng dù Tăng hay tục, Sư ông chỉ dạy ba điều rất là bình dị: Ăn chay, tụng kinh, niệm Phật. Sư ông dạy: “Ăn chay phải thiệt ăn chay, không ăn ngũ vị tân để tăng trưởng lòng từ bi. Tụng kinh Đại thừa để tăng trưởng trí tuệ. Niệm Phật phải đủ Tín - Nguyện - Hạnh để một đời này giải quyết được sanh tử luân hồi”. Hay: “Đời mạt pháp có nhiều dị kiến, nên những gì không đúng với kinh điển Đại thừa thì không nên nghe theo”.

Những lời dạy đó, tuy bình dị nhưng đôi lúc ngẫm lại, tôi thấy cả đời cũng chưa chắc đã làm xong. Về sau này, chúng tôi thường xuyên mở khóa niệm Phật và tổ chức tụng đọc kinh điển Đại thừa, đồng thời trợ duyên cho các tổ chức dịch thuật in ấn để thực hiện phần nào bổn hoài ấy của Tôn sư.

Sống trong bổn hoài Tôn sư - Những chuyện chưa kể về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh ảnh 7

* Mong Hòa thượng có thể chia sẻ thêm về những tâm nguyện đối với tứ chúng Vạn Đức trong việc tu học cũng như hành đạo?

Tôi luôn mong muốn các vị đã có duyên thọ ân giáo dưỡng của Sư ông, nhất là những đệ tử xuất gia đang còn tu tập ở Vạn Đức, Vạn Linh hay đã ra hoằng hóa ở các trú xứ khác, luôn nhớ đến bổn hoài của Sư ông mà cố gắng duy trì và phát triển. Mỗi người hãy là một Liên hữu siêng năng niệm Phật trong tất cả mọi oai nghi theo tinh thần bài “Kệ niệm Phật” mà Sư ông đã hướng dẫn cũng như sinh hoạt theo 10 tông chỉ mà Sư ông đã soạn ra khi lập hội “Cực lạc Liên hữu”. Trong tâm niệm của tôi, một người đệ tử nối gót Sư ông phải luôn cố gắng thiết thật tu hành (vì giải thoát sanh tử luân hồi), không môi miếm (quá lý tưởng cao xa không tương ưng với thực tế - PV).

Thuở sanh tiền, Sư ông còn có tâm nguyện kiến thiết ngôi tháp 13 tầng và Đức Phật A Di Đà cao 48m. Cho đến khi Sư ông viên tịch, tâm nguyện ấy vẫn còn dang dở. Gần đây, chúng tôi đã thiết lập dự án một ngôi chùa ngay trên quê hương Sư ông, trong đó có từ đường để thờ phượng tổ tiên, những bậc đã sanh thành ra ngài, phía trước ngôi chùa sẽ tôn trí tượng Phật bằng đá cao 48m mà bên trong là ngôi bảo tháp 13 tầng. Với ý nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, tôi mong rằng tất cả huynh đệ tứ chúng chung sức chung lòng để hoàn thành công trình cũng như bổn hoài của Sư ông, cũng như bằng sự tu học và hành đạo thiết thật, đền đáp phần nào thâm ân giáo dưỡng của bậc tôn sư.

* Cảm ơn Hòa thượng đã dành thời gian chia sẻ với Báo Giác Ngộ những câu chuyện thú vị về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh, bậc Thầy của nhiều thế hệ Tăng Ni, vị giáo phẩm lãnh đạo của Giáo hội và là một đại dịch giả, hành giả Đại thừa của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Hạnh Đăng/Báo Giác Ngộ thực hiện

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state