Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Thiền sư Chân Nguyên (1647 - 1726) Tuệ Đăng - thiền sư Việt Nam
Chân Nguyên (1647 - 1726), còn có pháp danh là Tuệ Đăng; là một thiền sư Việt Nam, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 36; và là người khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm đời Trần ở Đàng Ngoài [1]. Sư là người họ Nguyễn tên Nghiêm, tên chữ là Đình Lân, sinh ngày 11 tháng 9 năm Đinh Hợi (1647) ở tại làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Không rõ cha của sư là ai, chỉ biết mẹ của sư là một người họ Phạm [2]. Lớn lên, sư theo học với cậu là một Giám sinh (học sinh trường Quốc Tử Giám). Sư rất thông minh, hạ bút là thành văn. Năm 16 tuổi, sư đọc quyển Tam Tổ Thực Lục, đến Tổ thứ ba là Huyền Quang liền tỉnh ngộ nói: "Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống ta là một chú học trò", rồi phát nguyện đi tu [3].
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:460

Các tên gọi khác

Chân Nguyên , Tuệ Đăng

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Thiền sư Chân Nguyên (1647 - 1726) Tuệ Đăng - thiền sư Việt Nam

Chân Nguyên

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thiền sư
Chân Nguyên
Pháp danh Tuệ Đăng/Chân Nguyên
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáo Phật giáo
Trường phái Bắc tông
Tông phái Tông Lâm Tế
Xuất gia 1666
chùa Hoa Yên
Quảng Ninh
Thông tin cá nhân
Sinh  
Thế danh Nguyễn Nghiêm
Ngày sinh 11 tháng 9, 1647
Nơi sinh làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương
Mất 26 tháng 10, 1726 (79 tuổi)
An nghỉ chùa Quỳnh Lâm, chùa Lân
 Cổng thông tin Phật giáo
Tháp Tịch Quang ở chùa Lân, thờ thiền sư Chân Nguyên

Chân Nguyên (1647 - 1726), còn có pháp danh là Tuệ Đăng; là một thiền sư Việt Nam, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 36; và là người khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm đời Trần ở Đàng Ngoài [1].

Thân thế và đạo nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sư là người họ Nguyễn tên Nghiêm, tên chữ là Đình Lân, sinh ngày 11 tháng 9 năm Đinh Hợi (1647) ở tại làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Không rõ cha của sư là ai, chỉ biết mẹ của sư là một người họ Phạm [2].

Lớn lên, sư theo học với cậu là một Giám sinh (học sinh trường Quốc Tử Giám). Sư rất thông minh, hạ bút là thành văn. Năm 16 tuổi, sư đọc quyển Tam Tổ Thực Lục, đến Tổ thứ ba là Huyền Quang liền tỉnh ngộ nói: "Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống ta là một chú học trò", rồi phát nguyện đi tu [3].

Năm 19 tuổi, sư lên chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử (Quảng Ninh), xin xuất gia với Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú), và được đặt pháp danh là Tuệ Đăng.

Ít lâu sau, Thiền sư Tuệ Nguyệt viên tịch. Sư cùng bạn đồng tu là Như Niệm phát nguyện tu hạnh đầu đà[4], rồi đi du phương để tham vấn Phật pháp. Thời gian sau, Như Niệm đổi ý trở về trụ trì chùa Cô Tiên (Thanh Hóa). Còn sư thì đi đến chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương (Bắc Ninh)[5] xin tham học với Thiền sư Minh Lương (? - ?, thuộc phái Lâm Tế, đời thứ 35)[6], và được đặt pháp danh là Chân Nguyên.

Sau khi được tâm ấn, sư thọ giới Tỳ-kheo (Tỉ-khâu). Một năm sau, sư lập đàn thỉnh ba đức Phật (Thích-caA-di-đàDi-lặc) chứng đàn, thọ giới Bồ-tát và đốt hai ngón tay nguyện hành hạnh Bồ-tát. Về sau, sư được truyền thừa y bát của thiền phái Trúc Lâm, làm Trụ trì chùa Long Động (tức chùa Lân, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử) và chùa Quỳnh Lâm (Đông TriềuQuảng Ninh), là hai ngôi chùa lớn của phái.

Năm 1684, sư dựng đài Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm theo kiểu mẫu đài Cửu Phẩm Liên Hoa mà Thiền sư Huyền Quang đã dựng trước kia ở chùa Ninh Phúc (còn gọi là chùa Bút Tháp) ở Bắc Ninh.

Năm 1692, lúc 46 tuổi, sư được vua Lê Hy Tông triệu vào cung để tham vấn Phật pháp. Vua khâm phục tài đức sư, ban cho sư hiệu Vô Thượng Công và cúng dàng áo ca-sa cùng những pháp khí để thờ tự [7].

Năm 1722, lúc 76 tuổi, sư được vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống và ban hiệu là Chánh Giác Hòa Thượng [7].

Đến năm 1726, sư triệu tập đệ tử dặn dò và nói kệ truyền pháp như sau:

Phiên âm Hán-Việt:
Hiển hách phân minh thập nhị thì,
Thử chi tự tánh nhậm thi vi.
Lục căn vận dụng chân thường kiến,
Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.
Dịch:
Bày hiện rõ ràng được suốt ngày,
Đây là tự tánh mặc phô bày.
Chân thường ứng dụng sáu căn thấy,
Muôn pháp dọc ngang giác ngộ ngay [8]

Nói kệ xong, sư bảo chúng: "Ta đã 80 tuổi, sắp về cõi Phật". Đến tháng 10 năm ấy, sư nhuốm bệnh, đến sáng ngày 28 viên tịch, thọ 80 tuổi (tính theo tuổi ta). Môn đồ làm lễ hỏa táng thu di cốt (tín đồ gọi là xá lợi) chia thờ hai tháp ở chùa Quỳnh Lâm và chùa Lân (Long Động).

Thiền sư Chân Nguyên đã đào tạo được nhiều đệ tử ưu tú như Như HiệnNhư SơnNhư Trừng...

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nhà Phật học Lê Mạnh Thát, thì Thiền sư Chân Nguyên có đến 11 tác phẩm (trong số đó có những cuốn chưa thật chắc chắn):

  • Tôn sư pháp sách đăng đàn thọ giới
  • Nghênh sư duyệt định khoa
  • Long thư Tịnh độ văn tự
  • Long thư Tịnh độ luận, bạt, hậu tự
  • Tịnh độ yếu nghĩa[9]
  • Ngộ đạo nhân duyên
  • Thiền tịch phú
  • Thiền tông bản hạnh [10].
  • Nam Hải Quan Âm bản hạnh
  • Đạt Na thái tử hành
  • Hồng mông Hành[11].

Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Lang (tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2). Nhà xuất bản Văn Học, 1992.
  • Thích Thanh TừThiền sư Việt Nam, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1992.
  • Thích Tâm Tuệ, Lược sử Phật giáo Việt Nam. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1993.
  • Nhiều người soạn (Nguyễn Tài Thư làm chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Nguồn: Thiền sư Việt Nam (tr.406), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2, tr. 122), Lược sử Phật giáo Việt Nam (tr. 416). Đọc đoạn trích từ sách: CHÂN NGUYÊN, NGƯỜI CÓ CÔNG PHỤC HƯNG MÔN PHÁI TRÚC LÂM[liên kết hỏng]
  2. ^ Sách Thiền sư Việt Nam kể: "Một hôm, mẹ Sư nằm mộng thấy cụ già cho một hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đây biết có mang" (tr. 401).
  3. ^ Theo Thiền sư Việt Nam, tr. 401.
  4. ^ Hạnh đầu đà tức là ăn cũng không ăn ngon, mặc cũng không mặc đẹp, ở cũng không ở chỗ tốt, tự mình phải kham khổ, nhẫn chịu lao nhọc, không được sợ khó. Nguồn: Theo bài viết của Hòa thượng Tuyên Hóa [1].
  5. ^ Chùa Vĩnh Phúc tọa lạc thôn Đoàn Kết, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Đời nhà Lê, chùa thuộc thôn thượng làng Phù Lãng, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc. Chùa nằm trên dãy núi Côn Cương mà các thư tịch thường viết "Côn Cương sơn đảnh Vĩnh Phúc thiền tự". Chùa ra đời khi nào không biết, ngay trong văn bia đời Lê cũng chưa có một cứ liệu rõ ràng. Nguồn: Tập san Pháp luân, số 59 [2][liên kết hỏng].
  6. ^ Thiền sư Minh Lương (? - ?, người Bắc Ninh) là học trò của Thiền sư Chuyết Chuyết (1590-1644), là người Phúc Kiến (Trung Quốc), thuộc thế hệ thứ 34 dòng Lâm Tế. Hai vị đệ tử xuất sắc nhất của Sư là Thiền sư Minh Hành (1596-1659) và Thiền sư Minh Lương; Minh Hành là người Giang Tây (Trung Quốc).
  7. a b Theo Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2), tr. 121.
  8. ^ Nguồn: Thiền sư Việt Nam (tr.405). Về tư tưởng thiền của Chân Nguyên, xem Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2, tr. 126-135). Bản điện tử tại đây: TƯỞNG THIỀN CỦA CHÂN NGUYÊN Lưu trữ 2012-11-14 tại Wayback Machine.
  9. ^ Theo nhà Phật học Lê Mạnh Thát, thì mặc dù pháp môn Tịnh độ đã được nhà sư Giới Chân, vua Trần Thái TôngTuệ Trung Thượng sĩTrần Nhân Tông...nói đến, nhưng phải đợi đến thế kỷ 17 với Thiền sư Chân Nguyên thì mới có một tác phẩm đặc biệt dành riêng cho Tịnh độ tông, đó là tác phẩm Tịnh Độ Yếu Nghĩa. Đây được xem như một tác phẩm lý luận của Phật giáo Việt Nam (Chân Nguyên thiền sư toàn tập, tập 1, Tu thư Vạn Hạnh xuất bản, 1980).
  10. ^ Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, thì Thiền sư Chân Nguyên đã khuyến khích môn đồ gắng sức phục hưng các tác phẩm Phật giáo thời Lý Trần. Ngoài việc trước tác sách Thiền Tông Bản Hạnh, Sư còn tổ chức trùng khắc sách Thánh Đăng Lục. Nguồn: Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2), tr. 138.
  11. ^ Ghi theo GS. Nguyễn Huệ Chi, in trong Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2, tr. 123) của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

.

 

Thiền Sư CHÂN NGUYÊN pháp danh TUỆ ĐĂNG (thuongchieu.net)

(1647 - 1726)-(Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)

Sư họ Nguyễn tên Nghiêm, tên chữ là Đình Lân, mẹ họ Phạm quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Một hôm, mẹ Sư nằm mộng thấy cụ già cho một hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đây biết có mang. Năm Đinh Hợi (1647), tháng 9 ngày 11 giờ ngọ, mẹ sinh ra Sư. Lớn lên theo học với cậu là ông Giám Sinh. Sư rất thông minh, hạ bút là thành văn. Năm 16 tuổi, Sư đọc quyển Tam Tổ Thực Lục, đến Tổ thứ ba là Huyền Quang liền tỉnh ngộ nói: “Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống ta là một chú học trò.” Sư liền phát nguyện đi tu.

Năm 19 tuổi, Sư lên chùa Hoa Yên vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú).

Thiền sư Tuệ Nguyệt hỏi:- Ngươi ở đâu đến đây ?

Sư thưa:- Vốn không đi lại.

Tuệ Nguyệt biết Sư là pháp khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp danh là Tuệ Đăng. Sau không bao lâu Tuệ Nguyệt tịch. Sư cùng bạn đồng liêu là Như Niệm phát nguyện tu hạnh đầu-đà đi du phương để tham vấn Phật pháp . Thời gian sau, Như Niệm đổi ý trở về trụ trì chùa Cô Tiên. Sư đi lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ tử của Chuyết Chuyết.

Sư hỏi:

- “Bao năm dồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào” là sao ?

Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Sư, Sư nhìn lại, liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương bảo:

-  Dòng thiền Lâm Tế trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời.

Minh Lương đặt cho Sư pháp hiệu là Chân Nguyên và bài kệ phó pháp:

          Ngọc quý ẩn trong đá

          Hoa sen mọc từ bùn

          Nên biết chỗ sinh tử

          Ngộ vốn thật Bồ-đề.

          (Mỹ ngọc tàng ngoan thạch

          Liên hoa xuất ứ nê

          Tu tri sinh tử xứ

          Ngộ thị tức Bồ-đề.)

Chính vì chỗ ngộ này, sau Sư soạn quyển “Trần Triều Thiền Tôn Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành” có cả thảy bảy lần nói về “Tứ mục tương cố” (bốn mắt nhìn nhau). Những đoạn như sau:

Đoạn I:

             Tứ mục tương cố nhãn đồng

             Thầy tớ trao lòng, đăng chúc giao huy,

             Bổng đầu cử nhãn ấn tri

             Cơ quan thấu được thực thì tri âm.

Đoạn II:

             Tam thế chư Phật Tổ sư

             Tứ mục tương cố thị cừ thiền cơ.

Đoạn III:

             Hiện ra nhãn nhĩ thanh âm

             Tứ mục tương cố chẳng tâm thời gì ?

             Tâm nguyên không tịch vô vi

             Ngộ được tức thì quả chứng Như Lai.

Đoạn IV:

            Bát tự đả khai bằng nay

            Tứ mục tương cố lộ bày viên dung

            Ấy là mật ấn tâm tông

            Tổ đã truyền lòng chớ có hồ nghi.

Đoạn V:

            Tam thế chư Phật Như Lai

            Tứ mục tương cố muôn đời chứng thân.

Đoạn VI:

             Bảo thực cứu cánh cho hay

             Tứ mục tương cố thực rày ấn tâm.

Đoạn VII:

             Hóa Phật thọ ký vô biên

             Tứ mục tương cố mật truyền tâm tông.

Trong bài “Ngộ Đạo Nhân Duyên” có đoạn Sư viết:

          Một ngọn đèn tâm mắt Phật sinh,

          Truyền nhau “bốn mắt ngó” phân minh.

          Ngọn đèn mãi nối sáng vô tận,

          Trao gởi thiền lâm dạy hữu tình.

          (Nhất điểm tâm đăng Phật nhãn sinh,

          Tương truyền tứ mục cố phân minh.

          Liên phương tục diệm quang vô tận,

          Phổ phó thiền lâm thọ hữu tình.)

Sau khi được tâm ấn rồi, Sư thọ giới Tỳ-kheo. Một năm sau, Sư lập đàn thỉnh ba đức Phật (Phật Thích-ca, Di-đà, Di-lặc) chứng đàn, thọ giới Bồ-tát và đốt hai ngón tay nguyện hành hạnh Bồ-tát. Về sau, Sư được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm Trụ trì chùa Long Động và chùa Quỳnh Lâm, là hai ngôi chùa lớn của phái Trúc Lâm.

Năm 1684, Sư dựng đài Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm theo kiểu mẫu đài Cửu Phẩm Liên Hoa mà Thiền sư Huyền Quang đã dựng trước kia ở chùa Ninh Phúc.

Năm 1692, lúc 46 tuổi, Sư được vua Lê Hy Tông triệu vào cung để tham vấn Phật pháp. Vua khâm phục tài đức Sư, ban cho Sư hiệu Vô Thượng Công và cúng dàng áo ca-sa cùng những pháp khí để thừa tự.

Năm 1722, lúc 76 tuổi, Sư được vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống và ban hiệu Chánh Giác Hòa Thượng.

Đến năm 1726, Sư triệu tập đệ tử dặn dò và nói kệ truyền pháp, kệ rằng:

          Bày hiện rõ ràng được suốt ngày,

          Đây là tự tánh mặc phô bày.

          Chân thường ứng dụng sáu căn thấy,

          Muôn pháp dọc ngang giác ngộ ngay.

          (Hiển hách phân minh thập nhị thì,

          Thử chi tự tánh nhậm thi vi.

          Lục căn vận dụng chân thường kiến,

          Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.)

Nói kệ xong, Sư bảo chúng: “Ta đã 80 tuổi, sắp về cõi Phật.” Đến tháng mười, Sư nhuốm bệnh, đến sáng ngày 28 viên tịch, thọ 80 tuổi. Môn đồ làm lễ hỏa táng thu xá-lợi chia thờ hai tháp ở chùa Quỳnh Lâm và chùa Long Động, tháp hiệu Tịch Quang. Sư là người khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm.

Tác phẩm của Sư có:

          1/ Tôn Sư Pháp Sách Đăng Đàn Thọ Giới

          2/ Nghênh Sư Duyệt Định Khoa

          3/ Long Thư Tịnh Độ Văn

          4/ Long Thư Tịnh Độ Luận Bạt Hậu Tự

          5/ Tịnh Độ Yếu Nghĩa

          6/ Ngộ Đạo Nhân Duyên

          7/ Thiền Tông Bản Hạnh

          8/ Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh

          9/ Thiền Tịch Phú

          10/ Đạt Na Thái Tử Hạnh

          11/ Hồng Mông Hạnh

          12/ Kiến tánh thành Phật.

 Phụ bản: THIỀN TỊCH PHÚ

                Vui thay tu đạo Thích !

                Vui thay tu đạo Thích !

                Lọ phải thành đô,

                Nào nề tuyền thạch.

                Dù ngồi nơi cảnh trí danh lam,

                Hoặc ở chốn chùa chiền cổ tích,

               Đâu cũng dòng phước đức trang nghiêm.

               Đây cũng vốn tu công thiền tịch.

               Trước án tiền, đẳng kinh ba bức, tố khảm mã não, xa cừ;

                Trên thượng điện, thánh tượng mấy tòa, vẽ vàng san-hô, hổ phách.

                Thần Bát bộ Kim Cương đứng chấp, trấn phò vua ai thấy chẳng kinh;

                Tượng tam thân bảo tướng ngồi bày, ủng hộ chúa cõi nào dám địch.

                Tả A-nan đại sĩ vận sa hoa sặc sỡ vân vi;

                Hữu Thổ địa Long thần, mặc áo gấm lổ lang xốc xếch.

                Am thờ Tổ, ngói rập gỗ dăm,

                Nhà trú tăng, vách vôi tường gạch.

                Mấy bức kẻ chữ triện mặc rời,

                Bốn bên nhiễu câu lan sóc sách.

                Gác rộng thênh chuông đưa vài chập, niệm Nam-mô,nhẹ tiếng boong boong.

                Lầu cao tót trống dậy mấy hồi, đọc thần chú khu tang cách cách.

                Phướn tràng phan nhuộm vàng khè, lúc gió đưa phất phới nhởn nhơ;

                Dù bóng boong dạng đen sì, khi trập mở nhập nhu thì thích.

                Sư quân tử cấy trúc ngô đồng,

                Đệ trượng phu trồng thông tùng bách.

                Trăm thức hoa đua nở kề hiên,

                Bảy giống báu chất đầy kẻ ngạch.

                Ngào ngạt mùi xạ lan,

                Thơm tho hương trầm bạch.

                              ***

                Sãi chưng nay

                Mộ đạo tu hành

                Xả đường kinh lịch.

                Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng,

                Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch.

                Đêm đông trường, khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh;

                Ngày hạ tiết, lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch.

                Chỉn chuộng một bề đạo đức,

                Miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay;

                Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách.

                Khi dưa giấm chua lòm,

                Bữa canh suông lạt thếch.

                Mũ viền sô nhuộm mực đen sì.

                Quần áo vải nâu sòng cũ rích.

                Tham tài ái sắc, chẳng bao màng thói tục kiêu ngoa;

                Cầu đạo xả thân, vốn giữ nếp nhà thiền cục kịch.

                Túi để đựng kinh chứa sách, túi nào dùng vóc cải móng rồng;

                Dép đi đỡ bụi cách trần, dép chẳng chuộng da tàu hàm ếch.

                Gậy nương chống đi dong dặm tuyết, gậy chẳng cầu khúc khuỷu cong queo;

                Bầu để đựng chứa nước cam lồ, bầu lọ phải ngòng ngoèo ngốc nghếch.

                Quảy bồ tre cầm quạt trúc, nào có hiềm nan cật to đề;

                Ngồi chiếu lát tựa giường song, cũng chẳng quản dá ken thưa thếch.

                Chơi rừng Nho len lỏi suối khe,

                Dạo bể Thích luồn tuôn ngòi lạch.

                Trà bát đức sẵn đà lưu loát, chẳng phải lo củi nấu kỳ cầm;

                Bánh tam thừa vốn đã chứa chan, nào có nhọc bột đâm thì thịch.

                Quả bồ-đề ăn ngọt sớt, muôn kiếp hằng no;

                Hoa Ưu-bát ngửi thơm tho, ngàn đời chẳng dịch.

                Sang Tây phương bệ ngọc đứng chơi,

               Về Đông độ tòa vàng ngồi trịch.

                Bè từ bi thênh thênh rộng rãi, mặc sức chở người;

                Thuyền Bát-nhã thăm thẳm bao la, dầu lòng độ khách.

                Sãi chưng nay

                Khuyên đấng đại thừa,

                Bảo loài tiểu chích.

                May gặp được minh sư đạo đức, một phen liền biết, nào hề chi chữ nghĩa tìm đòi;

                Phúc lại thấy tri thức bạn lành, mấy chốc mà nên, lọ là phải văn chương ngóc ngách.

                Thích-ca Phật Tổ năng kiến tánh, ngồi Tuyết Sơn, khô khẳng gầy gò;

                Di-lặc Tiên Quang bởi vô tâm, đi vân thủy đẫy đà phục phịch.

                Đức Huệ Năng bát nguyệt thung phường,

                Tổ Đạt-ma cửu niên diện bích,

                Thần Quang đoạn tý, lúc còn mê, mặt ngó đăm đăm;

                Ca-diếp nhãn đồng, thoắt chốc ngộ, miệng cười hệch hệch.

                Dầu người quyết lòng học đạo, hỏi cho hay sừng thỏ lông rùa;

                Hoặc kẻ dốc chí chân tu, xem cho biết đầu sò tai ếch.

                Khuyên người ở đời đừng bắt chước sự đời, trước không, sau lại về không, nữa luống công nghĩ tiếc  khuâng khuâng;

                Bảo kẻ có chí phải theo đòi thánh chí, nhân đà tỏ, quả càng thêm tỏ, rồi đắc ý cười riêng khích khích.

Thiền sư Chân Nguyên - Vị Thiền sư lừng danh thế kỷ 17

Thanh Tâm (Tổng hợp)

Chân Nguyên Thiền sư, một trong những cây đuốc sáng rực và là nhà tư tưởng lớn trong Phật Giáo ở thế kỷ thứ 17. Những câu chuyện huyền thoại xung quanh sự nghiệp của Chân Nguyên chắc chắn sẽ còn được người đời sau truyền tụng mãi mãi.

Mời Đạo hữu ngắm và cung thỉnh tôn tượng Đức Thích Ca Mâu Ni tại đây.

>>Phật tử có thể đọc loạt bài về các Chân dung từ bi 

Đôi nét về Thiền sư Chân Nguyên 

Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726)

Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726)

Thiền sư Chân Nguyên vốn mang họ Nguyễn, tên thật là Nghiêm, tự là Đình Lân, người làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Câu chuyện về sự ra đời của Chân Nguyên được người đời nhắc lại đã đầy màu sắc huyền thoại. Chuyện kể rằng, một hôm, mẫu thân Chân Nguyên nằm mộng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ tặng cho bà một bông sen lớn. Bà giật mình tỉnh dậy và thấy trong người khang khác, từ đó bà mang thai. Tới giờ Ngọ ngày 11/9 năm Đinh Hợi, 1647, bà sinh ra một người con trai, đặt tên là Nguyễn Nghiêm, chính là thiền sư Chân Nguyên sau này.

Tới tuổi đi học, mẫu thân Nguyễn Nghiêm gửi con trai tới học chữ với một người cậu vốn là một giám sinh (tức người học ở trường Quốc tử giám). Nguyễn Nghiêm rất thông minh, học tới đâu nhớ tới đó, xuất khẩu thành chương nên được người cậu rất yêu quý.

Cả nhà ai cũng mong Nguyễn Nghiêm có ngày sẽ thành đạt làm quan. Tuy nhiên, tới năm Nguyễn Nghiêm 16 tuổi, khi đọc cuốn Tam Tổ Thực Lục, cuốn sách ghi lại cuộc đời và sự tích của ba vị tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm, tới câu chuyện về tổ thứ ba là Huyền Quang từ bỏ chức trạng nguyên để đi tu, Nguyễn Nghiêm chợt tỉnh ngộ nói: “Cổ nhân ngày xưa dọc ngang lẫy lừng mà còn chán sự công danh, huống hồ ta chỉ là một chú học trò nhỏ”.

Do vậy, sau đó, Nguyễn Nghiêm quyết định từ bỏ việc học hành, quyết tâm đi tu. Tuy nhiên, mãi 3 năm sau đó, khi đã 19 tuổi, Nguyễn Nghiêm mới dứt bỏ được tất cả sự níu kéo cản trở của gia đình, xuất gia đi tu.

Những huyền thoại về Thiền sư Chân Nguyên

Sinh ra trong thời ấy, người ta chỉ còn hai lựa chọn: Một là tiếp tay với những kẻ thống trị, để tiếp tục tạo thêm những thảm cảnh tang thương cho trăm họ. Hai là trở thành kẻ chống lại những thế lực đang cai trị và gây nên những cảnh tang tóc ấy. 

Và Nguyễn Nghiêm đã có cái may mắn là đọc được cuốn “Tam tổ thực lục” và tìm thấy con đường giải thoát khác cho một chàng trai mới lớn như mình. Tam tổ Huyền Quang đã từng đỗ Trạng Nguyên, nhưng chán mùi công danh phú quý, nên quyết chí đi tu. Câu chuyện của tổ Huyền Quang là một sự gợi mở rất lớn đối với Nguyễn Nghiêm, giúp ông tìm ra con đường đi cho mình trong lúc đang bế tắc: Đó là con đường xuất gia, một lòng tu Phật, tìm sự tĩnh tâm cho riêng mình.

Đầu tiên, Nguyễn Nghiêm lên chùa Hoa Yên vào yến kiến sư trụ trì ở chùa này là thiền sư Tuệ Nguyệt. Tuệ Nguyệt vừa nhìn thấy Nguyễn Nghiêm bước vào hỏi ngay: “Ngươi ở đâu đến đây?” Nguyễn Nghiêm bình thản nói: “Vốn không đi lại”.

Tuệ Nguyệt biết Nguyễn Nghiêm có cốt chân tu, có thể trở thành một pháp khí hoằng dương thiền pháp sau này, do vậy quyết định làm lễ xuống tóc cho Nguyễn Nghiêm và ban cho ông pháp danh là Tuệ Đăng. Tuy nhiên, Tuệ Nguyệt không may viên tịch sớm. Nguyễn Nghiêm và bạn đồng môn là Như Niệm phát nguyện thực hành hạnh đầu đà, đi du ngoạn khắp nơi để tham vấn Phật pháp.

Chân Nguyên Thiền sư, một trong những cây đuốc sáng rực và là nhà tư tưởng lớn trong Phật Giáo ở thế kỷ thứ 17. Ảnh minh họa

Chân Nguyên Thiền sư, một trong những cây đuốc sáng rực và là nhà tư tưởng lớn trong Phật Giáo ở thế kỷ thứ 17. Ảnh minh họa

Một thời gian sau, Như Niệm đổi ý trở về trụ trì ở chùa Cô Tiên. Còn lại một mình Nguyễn Nghiêm tiếp tục cuộc du ngoạn tham học của mình. Sau đó, Nguyễn Nghiêm tới chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham vấn thiền sư Minh Lương, vốn là đệ tử chân truyền của Thiền sư Chuyết Chuyết.

Khi Nguyễn Nghiêm vào yết kiến, chưa đợi Minh Lương hỏi gì ông đã hỏi ngược lại Minh Lương rằng: “Câu bao năm dồn chứa ngọc trong đấy, hôm nay tận mắt thấy thế nào’ nghĩa là sao?”.

Thiền sư Minh Lương không trả lời, đưa mắt nhìn thẳng vào Nguyễn Nghiêm. Nguyễn Nghiêm cũng đưa mắt nhìn thẳng lại Minh Lương. Bỗng nhiên, trong giây phút ấy, Nguyễn Nghiêm liền tỉnh ngộ, sụp xuống lạy Minh Lương.

Thiền sư Minh Lương nói: “Dòng thiền Lâm Tế ta trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời”. Sau đó, thiền sư Minh Lương đặt cho Nguyễn Nghiêm pháp hiệu là Chân Nguyên và đọc cho ông một bài kệ phó pháp rằng: Mỹ ngọc tàng ngoan thạch Liên hoa xuất ứ nê Tu tri sinh tử xứ Ngộ thị tức Bồ-đề. Nghĩa là: Ngọc quý ẩn trong đá Hoa sen mọc từ bùn Nên biết chỗ sinh tử Ngộ vốn thật Bồ-đề.

Cũng bắt đầu từ đây, cái tên Chân Nguyên bắt đầu gắn bó với cuộc đời của chàng thanh niên Nguyễn Nghiêm.

Sau khi được tâm ấn từ Thiền sư Minh Lương, Chân Nguyên thụ giới Tỳ-kheo. Một năm sau, Chân Nguyên lập đàn thỉnh ba đức Phật (Phật Thích-ca, Di-đà, Di-lặc) chứng đàn, thụ giới Bồ-tát và đốt hai ngón tay nguyện hành hạnh Bồ-tát.

Về sau, Chân Nguyên lại được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trụ trì chùa Long Động và chùa Quỳnh Lâm, là hai ngôi chùa lớn của phái Trúc Lâm.

Tới năm 1684, Chân Nguyên dựng đài Cửu Phẩm Liên Hoa tại chùa Quỳnh Lâm theo kiểu mẫu đài Cửu Phẩm Liên Hoa mà Thiền sư Huyền Quang đã dựng trước kia ở chùa Ninh Phúc.

Với quan điểm thiền tông mang màu sắc rất riêng, với sự nghiệp hoằng truyền thiền pháp rực rỡ, Chân Nguyên được coi là cây đuốc rực rỡ của Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ 17.

Với quan điểm thiền tông mang màu sắc rất riêng, với sự nghiệp hoằng truyền thiền pháp rực rỡ, Chân Nguyên được coi là cây đuốc rực rỡ của Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ 17.

Tới năm 1692, lúc 46 tuổi, Chân Nguyên được vua Lê Hy Tông triệu vào cung để tham vấn Phật pháp. Vua khâm phục tài đức Chân Nguyên, ban cho ông hiệu Vô Thượng Công và cúng giàng áo cà-sa cùng những pháp khí để thừa tự.

Năm 1722, lúc 76 tuổi, Chân Nguyên được vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống, tức chức Quốc sư thời đó và ban hiệu Chánh Giác Hòa Thượng. Có thể nói, trong suốt thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, Chân Nguyên là thiền sư có danh tiếng và uy vọng bậc nhất.

Quan niệm về Thiền của Chân Nguyên có nhiều sắc thái đặc biệt mới lạ. Nó là sự dung hòa giữa hai nền tâm linh của Ấn Độ và Trung Hoa, tổng hợp trở thành tư tưởng Thiền có nhiều tính chất của dân tộc.

Chân Nguyên cho rằng, then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.

Ý thức trọn vẹn được điều này thì tất cả những tương quan hành động, ý tưởng của ta tự nhiên đi vào con đường giác ngộ mà không cần phải suy luận đắn đo, không một cử chỉ nào là không phù hợp với chân lý mầu nhiệm.

Vì thế, dù mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý dù tiếp xúc với trần cảnh như vào ngôi nhà rỗng không, chẳng có gì ràng buộc tạo được nghiệp sinh tử. Chân Nguyên đề cập điều này rất nhiều lần trong tác phẩm Thiền Tông Bản Hạnh của mình: Hậu học đã biết hay chăng Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông.

Chân Nguyên vì nhờ Minh Lương nhìn thẳng vào mắt mà được giác ngộ. Nên cuộc đời còn lại Chân Nguyên đã dùng đến xảo diệu này.

Người ta kể ràng, Chân Nguyên hay nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối thoại, có lẽ thẩm định lại và làm hưng khởi tâm linh của con người ấy, giúp người đối thoại tìm thấy được sự chứng ngộ.

Nhờ phương pháp truyền dạy đặc biệt này, Chân Nguyên có rất nhiều đệ tử xuất sắc, đặc biệt phải kể đến Thiền sư Như Hiện và Như Trừng.

Sau này Như Hiện được kế thừa y bát của phái Trúc Lâm còn Như Trừng dựng Thiền phái lấy tên là Liên Tông. Sau đó hai phái tổng hợp làm một, góp phần tích cực vào việc khôi phục những tác phẩm đời thiền tông đời Trần.

Như Hiện xuất gia năm 16 tuổi, vào năm 1730 các chùa do ngài trông coi như chùa Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm được chúa Trịnh Giang trùng tu.

Năm 1748 ông được vua Lê Hiến Tông ban chức tăng cang và năm 1757 được sắc phong Tăng thống Thuần Giác Hòa Thượng. Thiền Sư Như Trừng vốn là một vị vương công họ Trịnh tên là Trịnh Thập, con của Phổ Quang Vương.

Ông được vua Hy Tông chọn làm phò mã và gả công chúa thứ tư. Tuy nhiên, sau đó ông dâng sớ xin đi tu và được vua chấp nhận. Khi còn là Sa Di Như Như, ông có viết các bài Ngũ Giới và Thập Giới Quốc Âm. Cả hai đều là những đệ tử kế thừa xuất sắc của Chân Nguyên.

Năm 1726, khi Chân Nguyên bước vào tuổi 80, ông cho triệu tập đệ tử dặn dò và nói kệ truyền pháp, kệ rằng:

Hiển hách phân minh thập nhị thì,

Thử chi tự tánh nhậm thi vi.

Lục căn vận dụng chân thường kiến,

Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.

Nghĩa là:

Bày hiện rõ ràng được suốt ngày,

Đây là tự tánh mặc phô bày.

Chân thường ứng dụng sáu căn thấy,

Muôn pháp dọc ngang giác ngộ ngay

Đọc xong bài kệ, Chân Nguyên bảo với chúng đệ tử rằng: “Ta đã 80 tuổi, sắp về cõi Phật”. Đến đầu tháng 10, ông nhuốm bệnh và đến sáng ngày 28 cùng tháng đo thì viên tịch, thọ 80 tuổi. Môn đồ làm lễ hỏa táng thu xá-lợi chia thờ hai tháp ở chùa Quỳnh Lâm và chùa Long Động.

Với quan điểm thiền tông mang màu sắc rất riêng, với sự nghiệp hoằng truyền thiền pháp rực rỡ, Chân Nguyên được coi là cây đuốc rực rỡ của Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ 17.

Những câu chuyện huyền thoại xung quanh sự nghiệp của Chân Nguyên chắc chắn sẽ còn được người đời sau truyền tụng mãi mãi.

Những tác phẩm của Thiền sư Chân Nguyên

Chân Nguyên Thiền sư là một cây bút lớn ở nền văn học thế kỷ thứ 17. Số lượng sáng tác của ngài khá nhiều, những tác phẩm sau đây đã được tìm thấy. Ảnh minh họa

Chân Nguyên Thiền sư là một cây bút lớn ở nền văn học thế kỷ thứ 17. Số lượng sáng tác của ngài khá nhiều, những tác phẩm sau đây đã được tìm thấy. Ảnh minh họa

Chân Nguyên Thiền sư là một cây bút lớn ở nền văn học thế kỷ thứ 17. Số lượng sáng tác của ngài khá nhiều, những tác phẩm sau đây đã được tìm thấy.

1- An Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh – đã được tái bản đến 3 lần, 1745, 1805 và 1932

2- Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh in 1850

3- Ngộ Đạo Nhân Duyên

4- Đạt Na Thái Tử hành, năm 1838

5- Hồng Môn hành, năm “Minh Mạng vạn vạn niên”

6- Thiền Tịch Phú năm 1932

Đó là những tác phẩm bằng quốc âm. Sau đây là những tác phẩm bằng Hán Văn.

7- Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới in 1748

8- Tịnh độ yếu nghĩa in ba lần 1747, 1851, và 1860

9- Nghênh sư duyệt định khoa in lại 1887.

Ngoài ra ngài còn viết tựa một số các kinh sách khác do ngài chủ trương hay người khác đứng in như:

- Long thư tịnh độ văn tự

- Trùng san Long thư tịnh độ luận hậu bạt tự.

Đó là những tác phẩm đã được tìm thấy, ngoài ra còn nữa chúng ta chưa khám phá ra. Và sự phát hiện bản in Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh năm 1850. Trước đó đã bị liệt vào loại khuyết danh, đã có những công cuộc nghiên cứu hai tác phẩm phổ biến trong nhân gian có một vài tư liệu phân tích về dữ kiện ngôn từ, ảnh tượng và ý tưởng cho rằng rất có thể tác giả là Thiền sư Chân Nguyên, đó là Quan Âm tống truyện và Phạm Tải Ngọc Hoa.

Chúng ta thử đi sâu vào một vài tác phẩm của Thiền sư Chân Nguyên, chẳng hạn như Thiền Tịch Phú: Đây là bài Phú Nôm về Chùa Long Động mang nhiều sắc thái và từ ngữ thuần túy Việt Nam. Bài này được chùa Long Động bảo quản và được Thiền phố phiên âm và in trong Đuốc Tuệ số 7 ra ngày 21-1-1936 tại Hà Nội. Sau đây là một đoạn trong Thiền Tịch Phú:

"Am thờ tổ ngói lấp gỗ lim

Nhà trú tăng vách vôi tường gạch

Mấy bức kẻ chữ tiện mực giồi

Bốn bên diễu câu lơn sóc sách

Gác rộng thênh chuông đưa ba chập, niệm Nam Mô nhẹ tiếng boong boong.

Lầu cao vót trống điểm mấy hồi, đọc thần chú khua tang cách cách.

…..

Chè Bát đức sẵn đà lưu loát, chẳng phải lo củi nấu kỳ cầm

Bánh Tam Thừa vốn đã chứa chan, nào có nhọc bột đâm thì thịch.

Quả Bồ Đề ăn ngọt xớt, muôn kiếp hằng no.

Hoa ưu bát ngửi thơm tho, ngàn đời chẳng dịch

Sang tây phương bệ ngọc đứng chơi

Về Đông Độ tòa vàng ngồi phịch

Bể từ bi thênh thông rộng rãi, mặc sức chở người

Thuyền Bát Nhã thăm thẳm bao la, giàu lòng độ khách

Thích Ca Phật Tổ ngồi tuyết sơn khô chẳng gầy già

Di Lặc Tiên Quang đi vận thủy đẫy đà phục phịch

Đức Tuệ Năng bát nguyện trung phường

Tổ Đạt Ma cửu niên diện bích

Thần quan đoạn tý, lúc còn mê mặt khó đăm đăm

Ca Diếp nhãn đồng, thoạt chốc ngộ miệng cười khềnh khệch.

Dù ai quyết lòng học đạo, hỏi cho hay rừng Thỏ lông rùa

Hoặc kẻ dốc chí chân tu, xem cho biết đầu cua tai ếch."

Và trong tác phẩm Ngộ Đạo nhân duyên có một đoạn đề cập đến nhân tâm, nhằm hiển lộ nên lối truyền thừa, dĩ tâm truyền tâm, dĩ mục truyền mục, chúng ta thử đọc về hình ảnh này qua cách diễn đạt của Thiền sư Chân Nguyên.

Đèn tâm mắt Phật mới vừa sinh

Tâm Ấn truyền nhau bốn mắt nhìn

Tiếp nối đèn kia về bất tận

Thiền lâm thắp mãi ánh quang minh .

(Nhất điểm tâm đăng Phật nhãn sinh

Tương truyền tứ mục cố phân minh

Liên phương tục diệm quang vô tận

Phổ phó thiền lâm thọ hữu hình)

Đó là điển hình trong việc đi vào một vài tư tưởng cũng như những tác phẩm của ngài. Ở đấy ta thấy được giá trị siêu việt của một văn tài đã bị lãng quên.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state