Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung (? - ?) Thiền sư VN khoảng thế kỷ 17 18
Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”. Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:476

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung (? - ?) Thiền sư VN khoảng thế kỷ 17 18

Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung (? - ?)[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với Phật giáo Huế nói riêng, Phật giáo Nam Hà nói chung, tổ Minh Hoằng Tử Dung có một vị trí thật đặc biệt. Bởi xét cho kỹ, đây là vị Sơ Tổ của Thiền phái Tử Dung - Liễu Quán ở Huế.[sửa | sửa mã nguồn]

Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”.

Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.

Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung

Tuy nhiên, một sự may mắn là tại chùa núi Phụng Sơn ở phủ Bình Khang còn có một bản Chánh Pháp Nhãn Tạng khắc vào giữa tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), và trong quyển Liệt Tổ thiền truyện của ngài Bổn Quả Khoáng Viên khắc tại Trung Quốc, sau các Đại sư ở Thuận Hóa trùng khắc và tục biên; một bản Chánh Pháp Nhãn Tạng của ngài Chơn Kim Pháp Lâm soạn năm 1889 (Hiện chùa Viên Thông - Huế tàng bản) đã giúp chúng ta biết được các chi tiết sau:

Vào cuối đời Minh, tông Lâm Tế rất long thịnh ở Thiên Đồng Sơn và Khánh Sơn. Tại Thiên Đồng Sơn có phái Thiên Đồng Viên Ngộ; từ chùa Thiên Đồng có ngài Thông Thiên được phong làm Quốc sư hiệu là Hoằng Giác gọi là Quốc sư Thông Thiên Hoằng Giác, ở vào đời thứ 31 dòng Lâm Tế. Ngài này truyền thừa theo kệ của ngài Vạn Phong Thời Ủy; chúng tôi gọi là “kệ chùa Thiên Đồng”:

                                              祖  道  戒  定  宗

                                              方  廣  證  圓  通

                                              行  超  明  實  際

                                              了  達  悟  真  空

                                              Phiên âm:

                                             Tổ Đạo Giới Định Tông,

                                             Phương Quảng Chứng Viên Thông,

                                             Hạnh Siêu Minh Thật Tế,

                                             Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.

                                             Tạm dịch:


                                             Giới định là tông chỉ,

                                             Rộng khắp chứng thần thông;

                                             Hạnh vượt sang bờ Thật,

                                             Tỏ ngộ đến chơn không.


Đồng thời Ngài cũng biệt xuất kệ và ra khai sơn chùa Thiên Khai. Kệ của Ngài là: Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên...; cũng đồng thời Ngài tự đổi Pháp húy thành Đạo Mân Mộc Trần; đó là kệ chùa Thiên Khai.

Ngài viên tịch vào triều Lê, không rõ năm nào chỉ thấy ghi ngày 16 tháng 11.

Có thể Ngài đã qua Nam với nhiều Ngài có chữ “Minh” đứng trước, các Ngài có thể ở chùa Thiên Đồng, có thể ở chùa Thiên Khai, chùa Báo Tư v.v... Nhưng  đều đi một lần với ngài Nguyên Thiều Hoán Bích vào năm 1676 hoặc 1677, cùng đổ bộ lên Quy Ninh. Ở đây, chúng tôi sẽ nói đến mấy vấn đề cần yếu sau:

Trong bộ sách Việt Nam Phật giáo sử lược (1942), đã được in lại nhiều lần, Hòa thượng Mật Thể cho rằng: Tổ Minh Hoằng Tử Dung qua Thuận Hóa một lần với ngài Thạch Liêm vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691) để ngồi trên ghế Thập Sư ở giới đàn  chùa Thiên Mụ; sau giới đàn Ngài ra lập chùa Ấn Tôn. Đoạn này, rất cần đến sự đính chính của hậu thế chúng ta. Thứ nhất, ngài Thạch Liêm qua Thuận Hóa năm Ất Hợi (1695) đời Nguyễn Phúc Chu, chứ không phải qua vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái. Thứ hai, đại giới đàn năm Ất Hợi (1695) mở tại chùa Thiền Lâm chứ nhất định không phải là ở chùa Thiên Mụ. Thứ ba, tất cả chư Tăng trong đại giới đó đều là người Trung Quốc đệ tử của Thạch Liêm Thiền sư chứ không có ai khác, cho nên Tổ Minh Hoằng Tử Dung không can dự đến giới đàn này.

Cũng trong sách nói trên, Hòa thượng Mật Thể đã dịch câu này trong văn bia: “Nhâm Thìn hạ, Hòa thượng lai quảng tấn toàn viện” thành ra như thế này: “Năm Nhâm Thìn (1712) mùa hạ, Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện” (?). Có lẽ Hoà thượng Mật Thể đã theo bản Pháp văn của Louis Sogny trong bài Le premier Annamite... ở B.A.V.H. Số 3 năm 1928, khi nói đến Tổ Từ Lâm. Thực sự, có lẽ câu ấy muốn nói rằng mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712) ấy, lễ an cư kiết hạ được tổ chức rất quy mô ở thiền viện Thiền Lâm thuộc vùng đất rất rộng trước mặt chùa Từ Đàm hiện nay; có thể chư Tăng ở Thuận Hóa - Quảng Nam vân tập về đây và toàn viện đã cung thỉnh ngài Tử Dung ở Ấn Tôn gần đó đến làm Thiền chủ. Cách chấm câu ấy có thể là: “Hòa thượng lai, quảng tấn toàn viện” tức là Hòa thượng đến, coi sóc nhắc nhở chu đáo mọi việc và sách tấn, khuyến khích chư Tăng để khai lễ cho chư Tăng vào hạ.

Phương pháp hoằng giáo của sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng là phương pháp của chư Thiền Tổ trong phái Lâm Tế chánh tông; tức là trao công án cho đệ tử “tham”. Công án Tổ Minh Hoằng Tử Dung đã trao cho ngài Liễu Quán là: “Vạn Pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?” (萬法歸一一歸何處). Yếu  chỉ của Thiền Lâm Tế là đốn ngộ. Không kể lâu hay mau, khi vị Đại sư tham công án đến tột cùng, hoát nhiên ngộ đạo. Vị Thiền sư ngộ đạo sẽ biểu lộ bằng một hành động mà thế nhân thấy rất kỳ quặc, khác thường; hoặc làm một bài “kệ” để trình Tổ. Thấy đệ tử đạt, Thiền Tổ liền ấn chứng, người ta còn gọi là “ấn khả”, và chính vị Thiền sư được ấn khả đó là Tổ kế thế của vị Tổ trước.


Ngài Liễu Quán đắc Pháp ở Sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng theo truyền thống Lâm Tế chánh tông ấy. Theo thuyết truyền thì trong kỳ kiết hạ năm Nhâm Thìn (1712); sau khi ngài Liễu Quán trình Kệ “Dục Phật” - rất tiếc là bài kệ này không được chép lại - Sơ Tổ Minh Hoằng liền "ấn khả". Từ giờ phút được ấn khả thì “y bát” của Minh Hoằng Tử Dung Sơ Tổ tại Ấn Tôn Hoàng Long Sơn, đã đi về núi Thiên Thai. Sau một thời gian Thiền phái Tử Dung - Liễu Quán phát triển rực rỡ khắp cõi Thuận Hóa và lan ra cả Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII, kéo dài cho đến tận ngày nay.

Tháp của Tổ Minh Hoằng Tử Dung trước đây được xây dựng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, nhưng sau đó do Pháp mở đường Nam Giao cắt vườn chùa làm hai mảnh, nên tháp của Tổ Tử Dung phải di dời qua gởi ở góc vườn chùa Báo Quốc. Chúng ta hy vọng một ngày nào đó có điều kiện sẽ thỉnh tháp của Tổ quay lại sân chùa Từ Đàm như thuở ban đầu vốn có của nó.

HT. Thích Hải Ấn

Nguồn tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Lang (tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2). Nhà xuất bản Văn Học, 1992.
  • Thích Thanh TừThiền sư Việt Nam, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1992.
  • Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (tập 1). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
  • Nguyễn Hiền Đức, "Ảnh hưởng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với Phật giáo Đồng Nai-Gia Định" in trong sách Hội thảo khoa học 3000 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Tp. HCM, 2000.

Và các bài viết trên các website đã dẫn trong bài.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Hình tượng sơ khai Bài viết các tu sĩ, danh tăng Phật giáo trong lịch sử Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
.

96. Thiền Sư Minh Hoàng Tử Dung, Tổ thứ 71, đời thứ 34 Thiền Phái Lâm Tế (quangduc.com)

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ


Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung, ngài là vị tổ thứ 34 của Thiền phái Lâm Tế, đến Việt Nam truyền giáo vào cuối thế kỷ thứ 27, và đệ tử nối pháp của Ngài là thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán là sơ tổ của thiền phái Liễu Quán tại Việt Nam.


Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 240 trong loạt bài giảng của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh dịch cúm Tàu.

Ngài Minh Hoằng Tử Dung không có tiểu sử, đến Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 17, căn cứ trên tiểu sử của đệ tử của Ngài là Tổ Liễu Quán (người gốc Phú Yên) mới biết được chút ít về cuộc đời của tổ Minh Hoằng Tử Dung.

Sư Phụ cho biết nhờ đọc tài liệu của một Sử gia Nguyễn Hiền Đức trong sách “Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong” (ấn hành năm 1995) mới biết ngài Minh Hoằng Tử Dung là đệ tử của đại sư Đại Sa Siêu Trường, ngài Siêu Trường là đệ tử Ngài Tuyết Giậu Chơn Phát, ngài Chơn Phát là đệ tử của Tổ Mộc Trần Đạo Mân, Tổ Lâm Tế đời 31, qua bài kệ truyền pháp của Tổ 12 Vạn Phong Thời Ủy:

 

Tổ Đạo Giới Định Tông,
Phương Quảng Chứng Viên Thông
Hạnh Siêu Minh Thật Tế
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.


Dịch nghĩa:

Giới định là tông chỉ,
Rộng khắp chứng thần thông
Hạnh vượt sang bờ Thật,
Tỏ ngộ đến chơn không.

 

Ngài Minh Hoằng Tử Dung là đệ tử thứ 13 và đệ tử của Ngài ở Việt Nam là Thiệt Diệu Liễu Quán, đời thứ 14, theo bài kệ truyền nói trên.

 

Theo nhiều nguồn tài liệu, Thiền sư Tử Dung đến VN vào năm Ất Dậu, ngày 28 tháng giêng, năm 1695, do lời mời của TS Nguyên Thiều, ngài đến Hội An cùng với phái đoàn thập sư truyền giới bao gồm: TS Thạch Liêm, TS Minh Hải-Pháp Bảo, TS Minh Vật-Nhất Tri,  TS Minh Lượng-Thành Đẳng v.v… chứng minh giới đàn truyền giới ở Huế, có 1400 giới từ tại gia và xuất gia, sa di, tỳ kheo, Bồ Tát, có công hầu khanh tướng, và Chúa Nguyễn Phúc Chu được truyền một giới đàn riêng, có pháp danh là Hưng Long. Sau giới đàn này, Ngài Tử Dung không về Trung Hoa mà ở lại nước An Nam để hoằng Pháp. Lúc đầu Ngài Tử Dung lập am tu bằng tre lá trên núi Hoàng Long ở Thuận Hóa. Sau đó, am tu được biến cải thành chùa và có tên là chùa Ấn Tông với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ".

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state