Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Thiền sư Nguyên Thiều (chữ Hán: 元韶, 1648-1728) - thiền sư Việt Nam
Thiền sư Nguyên Thiều (chữ Hán: 元韶, 1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, nhưng sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ông là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung Việt Nam đầu tiên, và đã đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong[1].
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:490

Các tên gọi khác

Nguyên Thiều , Siêu Bạch

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Thiền sư Nguyên Thiều (chữ Hán: 元韶, 1648-1728) - thiền sư Việt Nam

Nguyên Thiều

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thiền sư
Nguyên Thiều - Siêu Bạch
元韶

Thiền sư Nguyên Thiều - Siêu Bạch (1648 - 1728)

Pháp danh Siêu Bạch
Pháp tự Hoán Bích
Pháp hiệu Thọ Tông
Tên khác Tạ Nguyên Thiều
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáo Phật giáo
Trường phái Phật giáo Đại Thừa
Tông phái kệ phái Tổ Định - Tuyết Phong
Đệ tử Hòa thượng Minh Giác - Kỳ Phương

Hòa thượng Minh Trí - Thiện An

Hòa thượng Minh Hằng - Định Nhiên
Thông tin cá nhân
Sinh  
Ngày sinh Ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (8 tháng 7 năm 1648)
Nơi sinh phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc)
Mất  
Ngày mất Ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (20 tháng 11 năm 1728)
Nơi mất chùa Quốc Ân - Huế
Quốc tịch Trung Quốc
 Cổng thông tin Phật giáo

Thiền sư Nguyên Thiều (chữ Hán: 元韶, 1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, nhưng sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ông là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung Việt Nam đầu tiên, và đã đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong[1].

Thân thế và đạo nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sư nguyên họ Tạ, nhưng không rõ tên thật, sinh ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (tức 8 tháng 7 năm 1648) ở Trình Hương, thuộc phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).

Năm Đinh Mùi (1667), lúc 19 tuổi, sư xuất gia học đạo với Hòa thượng Bổn Quả - Khoáng Viên ở chùa Bảo Tự, và được ban pháp danh là Nguyên Thiều, pháp tự là Hoán Bích, pháp hiệu là Thọ Tông

Một phần của loạt bài về
Thiền sư Trung Quốc
Ensō

Bồ-đề-đạt-ma đến Huệ Năng[hiện]

Ngưu Đầu Thiền[hiện]

Nhánh Thanh Nguyên Hành Tư[hiện]

Nhánh Nam Nhạc Hoài Nhượng[hiện]

Lâm Tế tông[hiện]

Hoàng Long phái[hiện]

Dương Kì phái[hiện]

Tào Động tông[hiện]

Quy Ngưỡng tông[hiện]

Vân Môn tông[hiện]

Pháp Nhãn tông[hiện]

Không tông phái[hiện]

Thiền sư ni[hiện]

Cư sĩ[hiện]

 Cổng thông tin Phật giáo

thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33.

Sang Đại Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Sau đó, sư theo thuyền buôn sang Đại Việt (Việt Nam ngày nay) vào năm Đinh Tỵ (1677), và trú ở tại phủ Quy Ninh (tức Quy Nhơn, thuộc tỉnh Bình Định)[2], rồi lập chùa Thập Tháp Di Đà [3] (nay thuộc khu vực Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) để làm nơi tu và truyền dạy đạo Phật.

Năm 1682, Thiền sư Hương Hải của thiền phái Trúc Lâm dẫn theo khoảng 50 đệ tử bỏ Đàng Trong ra Đàng Ngoài. Ở Thuận Hóa vì thế thiếu tăng sĩ, nên chúa Nguyễn Phúc Tần cho người mời sư từ Quy Ninh ra Thuận Hóa[4].

Chùa Quốc Ân ngày nay

Đến Thuận Hóa, sư chọn chân đồi Hòn Thiên (còn gọi là núi Bân), phía trái núi Ngự Bình để dựng chùa Vĩnh Ân (1689, chúa Nguyễn Phúc Trăn cho đổi tên là chùa Quốc Ân) và tháp Phổ Đồng [5] vào khoảng năm 1682-1684.

Tiếp theo (trong khoảng năm 1687-1690)[6], sư được chúa Nguyễn Phúc Trăn cử về Trung Quốc để thỉnh thêm tăng sĩ, kinh Phật giáo, Phật tượng, pháp khí sang Đàng Trong. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp, chúa Nguyễn hỗ trợ cho sư mở Đại giới đàn ở chùa Thiên Mụ (Huế[6].

Đầu năm 1691, chúa Nguyễn Phúc Trăn mất, con là Nguyễn Phúc Chu lên thay. Năm 1692, sư được chúa Nguyễn cử làm trụ trì chùa Phổ Thành ở làng Hà Trung (nên còn được gọi là chùa Hà Trung; nay thuộc xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế). Tại đây, sư đã thiết trí một tượng Bồ Tát Quan Âm bằng đá thỉnh từ Trung Quốc [7].

Giải thích vì sao sư phải rời chùa Quốc Ân, đến làm trụ trì chùa Hà Trung, là một ngôi chùa nhỏ hơn, một số tài liệu đã cho biết: Ngay khi mới lên ngôi (1691), chúa Nguyễn Phúc Chu hãy còn trọng dụng sư Nguyên Thiều như chúa Nguyễn Phúc Trăn đã quý trọng. Nhưng năm 1692, một người Hoa tên A Ban (sau đổi tên là Ngô Lãng) cùng với một số tướng sĩ Chiêm Thành nổi lên chống chúa Nguyễn ở trấn Thuận Thành (đất Ninh ThuậnBình Thuận ngày nay), khiến chúa phải sai Cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn quân đi đánh dẹp. Qua biến cố này, có thể chúa Nguyễn đã không còn tin ở sự trung thành của người Hoa như trước. Có thể vì vậy, chúa Nguyễn đã cử sư Nguyên Thiều đi làm trụ trì chùa Hà Trung năm 1692.[8]

Đến ở chùa Hà Trung được ít lâu, thì sư vào đất Đồng Nai ẩn tích và hoằng hóa cho những lưu dân người Việt và người Hoa đã đến làm ăn sinh sống ở nơi ấy. Sau đó, sư lập chùa Kim Cang ở ấp Bình Thảo, thuộc dinh Trấn Biên (nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).

Giải thích cho việc vào Nam của Sư, sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong có đoạn viết:

Năm Ất Hợi (1695), ở Quảng Ngãi có người lái buôn tên Linh (không rõ họ), tự xưng Linh Vương, tạo chiến thuyền, đúc binh khí, rồi cùng người ở Qui Ninh (tức Quy Nhơn) tên Quảng Phú hợp nhau vào rừng núi đi cướp bóc. Quan quân không dẹp được, khiến chúa sai dinh Quảng Nam, hợp với hai phủ Quảng Ngãi và Quy Ninh đem quân đi đánh... Khi quan quân đến sơn trại thì Linh đã chết, Quảng Phú trốn vào Phú Yên, bị dân thiểu số bắt đem nạp... Chắc chắn là cuộc nổi loạn này cũng đã làm liên lụy đến sư Nguyên Thiều, vì Quảng Phú là người Hoa kiều (giống như A Ban trước đây) ở Quy Ninh, vốn là người đồng hương với Sư, lại nổi lên ở nơi sư lập chùa Thập Tháp Di Đà [9].

Viên tịch[sửa | sửa mã nguồn]

Một hôm, sư Nguyên Thiều lâm bệnh, họp môn đồ lại dặn dò mọi việc và truyền bài kệ rằng: Phiên âm Hán -Việt:

Tịch tịch kính vô ảnh
Minh minh châu bất dung
Đường đường vật phi vật
Liêu liêu không vật không.

Dịch thơ:

Lặng lẽ gương không chiếu bóng
Sáng trưng ngọc chẳng thu hình
Rõ ràng vật không phải vật
Mênh mông không chẳng là không.
(Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo Sử luận, tr.590) [10]

Đại ý sư muốn khai thị với chúng tăng rằng "cái thể của pháp thân thanh tịnh sáng suốt như gương trong, không lưu lại một ảnh trần, như ngọc minh châu trong suốt bóng sáng không tì vết. Tuy hiện tiền mọi sự vật có muôn ngàn sai khác nhưng không phải là vật có thật. Còn cái thể pháp thân vắng lặng thường trú, vắng lặng nhưng không phải trống rỗng"[11].

Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch tại chùa Kim Cang (Đồng Nai) ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (tức 20 tháng 11 năm 1728), thọ 80 tuổi. Sau đó, đồ chúng lập tháp chứa di cốt của sư ở trong khuôn viên chùa.

Tháng Tư năm Kỷ Dậu (1729), nhân ngày lễ Phật Đản, chúa Nguyễn Phúc Chú ban thụy hiệu cho sư là Hạnh Đoan Thiền sư và làm bài minh cho khắc vào bia dựng tại "tháp vọng" ở Huế, tán thán công đức của sư [12].

Những vấn đề liên quan[sửa | sửa mã nguồn]

Hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

 

Thiền sư Nguyên Thiều còn có pháp danh là Siêu Bạch, vì sư đã quy y với cả Thiền sư Hành Quả - Khoáng Viên và Thiền sư Đạo Mân - Mộc Trần. Thiền sư Khoáng Viên đặt pháp danh cho sư là Siêu Bạch, còn Thiền sư Đạo Mân thì đặt cho sư là Nguyên Thiều [13].

Năm sang Đại Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Một số sách như Đại Nam nhất thống chí (mục "Thừa Thiên phủ"), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2, tr. 184), Thiền sư Việt Nam (tr. 432), v.v... đều chép rằng sư Nguyên Thiều "xuất gia năm 1667 ở Trung Quốc, sang Việt Nam năm 1665".

Tuy nhiên, theo tác giả sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (tr. 103), thì sư Nguyên Thiều sang Đại Việt vào năm Đinh Tỵ (1677), chứ không phải năm Ất Tỵ (1655), bởi đây là việc "nhớ lầm hoặc biên chép lầm". Trước đó, Linh mục Cadière trong bài "La Pagode Quốc Ân: Le Fondateur" (Vị khai sơn chùa Quốc Ân) đăng trong tạp chí Bullein des amis du vieux Hue (xuất bản 1914, tr. 147-161), Hòa thượng Như Trí trong Phật Tổ tâm đăng (sách chữ Hán, viết năm 1925), cũng đều ghi là năm 1677, sau khi nêu lên nhầm lẫn này. Và đáng tin cậy hơn cả là cuốn Chính Truyền Nhứt Chi: Từ Trung Thiên đến Trung Hoa và Trung Việt (sách chữ Hán, không rõ năm biên soạn) của Hòa thượng Diệu Nghiêm (1726-1798, người sống sau sư Nguyên Thiều không lâu), cũng chép là năm 1677. Gần đây, trong sách của TT. Thích Tâm Tuệ (Lược sử Phật giáo Việt Nam, tr. 429), Nguyễn Tài Thư (Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tr. 343), Tài liệu Tu học do Ban hướng dẫn Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam (tu chỉnh năm 2006, nguồn đã dẫn) cũng đều chép là năm 1677.

Thiền sư Nguyên Thiều - Siêu Bạch 元韶, 1648 - 1728

Liên quan với Thạch Liêm[sửa | sửa mã nguồn]

Sách Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên nói rằng sư Nguyên Thiều có phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Trăn sang Quảng Đông (Trung Quốc) rước Thiền sư Thạch Liêm (tức Thích Đại Sán) và thỉnh pháp khí. Bia đá ở chùa Quốc Ân do chúa Nguyễn Phúc Chú đề năm 1729 cũng nói vậy (và một số sách cũng theo đó mà chép lại).

Nhưng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, thì sư Nguyên Thiều chưa từng mời Thạch Liêm. Sách Hải Ngoại Kỷ Sự do Thạch Liêm viết cho biết ông sang Đại Việt năm 1695 với một người bạn và nhiều đệ tử của ông, và cũng không hề đề cập gì đến sư Nguyên Thiều [14].

Sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (tr. 123, 133 và 166) chép tương tự, nhưng cho rằng sư Nguyên Thiều có đến mời sư Thạch Liêm, và có thời ở chung với nhau trong một chùa. Nhưng sư Thạch Liêm không đi mà chỉ cử đệ tử của mình là Hưng Liên sang Đại Việt (Sư Hưng Liên sau được chúa Nguyễn phong Quốc sư). Vì mối thâm tình ấy, nên khi sang Đại Việt (1894 - 1895), mà không gặp sư Nguyên Thiều ở chùa Hà Trung (vì lúc này sư đã lánh vào Nam), sư Thạch Liêm có nhắc tới người bạn tu trong 2 câu cuối của một bài thơ:

Tìm đâu bạn cũ chùa xưa nhỉ,
Trăng sáng bên cầu tương hội nhau[15].

Nơi viên tịch[sửa | sửa mã nguồn]

Theo một sách trước đây, thì Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch ở chùa Hà Trung. Sau đó, đồ chúng xây tháp (gọi là tháp Hóa Môn) ở bên đồi nhỏ ở xóm Thuận Hòa, thuộc làng Dương Xuân Thượng (ở gần chùa Trúc Lâm, thành phố Huế ngày nay) để chứa nhục thân của Sư.

Tuy nhiên, theo Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (tr. 143) và Tài liệu Tu học do Ban hướng dẫn Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam (nguồn đã dẫn), thì sư mất ở chùa Kim Cang (Đồng Nai) và được lập tháp chứa di cốt ở đây. Còn ở Huế chỉ là "tháp vọng" của đồ chúng xứ Thuận Hóa mà thôi.

Mời cao tăng Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Thiền sư Nguyên Thiều về Trung Quốc, đã mời được một số cao tăng sang Đại Việt, như sau:

-Thiền sư Giác Phong (khai sơn chùa Hàm Long, tức chùa Báo Quốc ở Phú Xuân).
-Thiền sư Từ Lâm (khai sơn chùa Từ Lâm ở Phú Xuân)
-Thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo (khai sơn chùa Chúc Thánh ở Quảng Nam).
-Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung (khai sơn chùa Ấn Tông, nay là chùa Từ Đàm ở Phú Xuân).
-Thiền sư Minh Lượng - Thành Đẳng (khai sơn chùa Phổ Bảo Hoằng Truyền, Bình Định).
-Thiền sư Hưng Liên - Quả Hoằng (trụ trì chùa Tam Thai trên núi Ngũ Hành SơnQuảng Nam) và một số thiền sư khác thuộc phái Tào động[10]

Sau khi hoàn thành sứ mạng tốt đẹp, sư Nguyên Thiều được chúa Nguyễn hỗ trợ mở một Đại Giới đàn để truyền giới cho một số nhà sư từ Trung Quốc mới sang, một số nhà sư thuộc thiền phái Trúc Lâm còn lại, cùng một số tăng sĩ trẻ ở Đàng Trong. Kể từ khi đó, ở Đàng Trong hầu hết các chùa đều thuộc phái thiền Lâm Tế[6].

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Theo HT. Thích Thanh Từ (Thiền sư Việt Nam, tr. 433) và Nguyễn Hiền Đức, "Ảnh hưởng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với Phật giáo Đồng Nai-Gia Định" (tr. 37).
  2. ^ Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần cho đổi tên Quy Nhơn thành Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy tên Quy Nhơn như cũ. Nguồn: Bài viết "Tìm về phố cổ Quy Nhơn trong lịch sử" của TS. Đinh Bá Hòa đăng trên website báo Bình Định ngày 22 tháng 8 năm 2012 [1].
  3. ^ Chùa Thập Tháp Di Đà nằm giữa một vùng quê cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 30 km về phía Bắc, thuộc thôn Vạn Thuận. Theo văn bia tại chùa ghi lại, thì sau khi đến Quy Ninh, năm Đinh Tỵ (1677), sư lập ngôi chùa nhỏ để tham thiền và hoằng dương Phật pháp. Năm 1680, chùa chính thức được xây dựng quy mô lớn lấy hiệu là "Thập Tháp Di Đà Tự", và khánh thành năm Quý Hợi (1683). Sau này, năm Minh Mạng nguyên niên (1820), chùa được vua sắc phong là "Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự". Nguồn: "Chùa Thập Tháp Di Đà – Di tích danh thắng miền Trung", bản điện tử: [2] Lưu trữ 2013-03-23 tại Wayback Machine và [3]. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2, tr. 184), vì sau chùa có mười ngôi tháp cổ của Chăm nên được gọi là Thập Tháp. Gọi là Di Đà vì trong chùa có thờ Phật A Di Đà.
  4. ^ Nguyễn Hiền Đức, "Ảnh hưởng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với Phật giáo Đồng Nai-Gia Định", tr. 26.
  5. ^ Tháp Phổ Đồng ở Thuận Hóa đã bị phá hủy khi quân Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân năm 1786, nên không biết hình dạng ngôi tháp thế nào, và thờ ai (ghi chú của sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tr. 133).
  6. a b c Nguyễn Hiền Đức, "Ảnh hưởng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với Phật giáo Đồng Nai-Gia Định", tr. 37.
  7. ^ Nhà sư Nguyên Thiều đã đem đặt ở đây một tượng Bồ Tát Quan Âm bằng đá, ở tư thế ngồi, cao 1,33 m, mang từ Trung Quốc sang. Tượng hiện nay vẫn còn. Ngoài ra còn có hai tượng Phật Di Đà bằng gỗ, phủ sơn và chuông đồng đúc năm 1672. Nguồn: "Chùa Hà Trung" trên website Thừa Thiên-Huế [4] Lưu trữ 2014-04-10 tại Wayback Machine.
  8. ^ Nguồn: Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, (tr. 122) và "Ảnh hưởng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với Phật giáo Đồng Nai-Gia Định", tr. 37.
  9. ^ Ngoài hai cuộc nổi loạn của người Hoa là A Ban và Quảng Phú, lúc ấy, ở Đàng Trong còn có một cuộc nổi dậy nữa. Theo sử liệu thì vào năm Giáp Tuất (1694), Chưởng cơ Nguyễn Phước Huệ và Nguyễn Phước Thông (con của Thiếu sư Nguyễn Phước Diễn) mưu loạn. Bị Chưởng cơ Nguyễn Phước Nhuận tố giác. Phước Huệ, Phước Thông và 7 người đồng mưu đều bị giết. Rõ ràng các cuộc bạo động trên đã làm liên lụy ít nhiều đến phái Lâm Tế ở Đàng Trong. Theo tài liệu, thì trong khoảng năm 1692-1694, Thiền sư Minh Hải-Pháp Bảo (đệ tử của Thiền sư Nguyên Thiều) cũng đã phải rời chùa Chúc Thánh ở Quảng Nam trốn núi Thiên Ấn ở Quảng Ngãi, đổi tên họ và pháp danh (lược kể theo Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tr. 122).
  10. a b “Việt Nam Phật giáo Sử lược, chương 8”Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2012.
  11. ^ Biên theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam (Nguyễn Tài Thư làm chủ biên), tr. 344.
  12. ^ Căn cứ theo bia "Sắc tứ Hà Trung tự - Hoán Bích Thiền sư tháp ký minh". Bản rập hiện có tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, hoặc xem trong Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tr. 98-99.
  13. ^ Theo Lược sử Phật giáo Việt Nam (Thượng tọa Thích Tâm Tuệ biên soạn, tr. 430). Trong sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam (Nguyễn Tài Thư làm chủ biên, tr. 345) kể tương tự.
  14. ^ Xem chi tiết trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, tr. 185 và 210.
  15. ^ Sau khi đến viếng Hà Trung, Hòa thượng Thạch Liêm có làm ba bài thơ vịnh chùa Hà Trung. Trong bản dịch Hải ngoại kỷ sự của Đại học Huế có chép đủ cả ba bài thơ này (theo Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tr. 129).

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Lang (tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh), Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2). Nhà xuất bản Văn Học, 1992.
  • Thích Thanh TừThiền sư Việt Nam, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1992.
  • Thích Tâm Tuệ, Lược sử Phật giáo Việt Nam. Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1993.
  • Nhiều người soạn (Nguyễn Tài Thư làm chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991.
  • Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
  • Nguyễn Hiền Đức, "Ảnh hưởng của Tổ sư Nguyên Thiều đối với Phật giáo Đồng Nai-Gia Định" in trong sách Hội thảo khoa học 3000 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Tp. HCM, 2000.
.

Tổ sư Nguyên Thiều với hành tung và thi kệ thị tịch

Thích Thái Hòa

Tổ sư Nguyên Thiều đã được chúa Nguyễn Phúc Thái thỉnh cầu sang Trung Hoa để thỉnh mời các danh Tăng, Phật tượng và Pháp khí từ Trung Hoa đến Đại Việt để phụng thờ và hành đạo. Tổ Sư rất được chúa Nguyễn Phúc Thái kính trọng.

Mời Đạo hữu ngắm và cung thỉnh tôn tượng Đức Thích Ca Mâu Ni tại đây.

Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông. Năm 19 tuổi xuất gia với Hòa Thượng Bổn Khao - Khoáng Viên tại chùa Báo Tư, ở Trung Hoa được Bổn sư trao cho Pháp danh Nguyên Thiều, tự Hoán Bích. Ngài Bổn Khao – Khoáng Viên tiếp nhận đạo mạch từ Tổ sư Đạo Mẫn – Mộc Trần - Hoằng Giác, đời 31 phái thiền Lâm Tế.

Thiền kệ truyền thừa của Ngài Đạo Mẫn như sau:

“Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên

Minh như hồng nhật lệ trung thiên

Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ

Chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền”.

Như vậy, Tổ sư Nguyên Thiều trong đạo mạch truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng đời thứ 69, từ Tổ sư Ca Diếp của Ấn Độ; đời thứ 33 từ Tổ sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền và là đời thứ ba trong thiền kệ truyền thừa từ ngài Đạo Mẫn – Mộc Trần - Hoằng Giác, ở chùa Thiên Khai, Trung Hoa. Tổ đình Quốc Ân – Huế truyền thừa theo thiền kệ của Ngài Đạo Mẫn.

Truyền thừa và hoằng pháp của Tổ sư Nguyên Thiều ở Đàng Trong

Tổ sư Nguyên Thiều.

Tổ sư Nguyên Thiều.

Đọc một số tư liệu khác, như bản Chánh Pháp Nhãn Tạng, in năm 1889, lưu giữ tại chùa Viên Thông – Huế; Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Thượng tọa Thích Mật Thể và bia tại ngôi tháp thờ vọng ở chùa Kim Cang Đồng Nai, thì pháp danh của Tổ sư Nguyên Thiều là Siêu Bạch được truyền thừa từ thiền kệ của Tổ Sư Vạn Phong –Thời Ủy ở chùa Thiên Đồng – Trung Hoa.

Bài kệ như sau:

“Tổ đạo giới định tông

Phương quảng chứng viên thông

Hạnh siêu minh thật tế

Liễu đạt ngộ chân không”.

Nếu theo dòng kệ truyền thừa nầy, thì Tổ sư Nguyên Thiều trong đạo mạch truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng là đời thứ 69, từ Tổ sư Ca Diếp tại Ấn Độ; đời thứ 33, từ ngài Lâm Tế - Nghĩa Huyền và đời thứ 12, từ ngài Vạn Phong – Thời Ủy của pháp phái Thiên Đồng ở Trung Hoa. 

Năm Đinh Tỵ, tức năm 1677, Tổ sư đã đi theo thuyền buôn đến phủ Quy Ninh Đại Việt, tức là Quy Nhơn – Bình Định ngày nay, lập chùa Di Đà Thập Tháp truyền bá phật pháp tại vùng nầy. Sau đó Tổ ra Phú xuân Lập chùa Vĩnh Ân và xây dựng tháp Phổ Đồng, tức là Tổ đình Quốc Ân ở Huế ngày nay, để tuyên dương Phật pháp và tháp Phổ Đồng do ngài xây dựng ngày ấy đã bị quân Tây Sơn phá sạch. Bấy giờ Tổ cũng đã trú trì chùa Hà Trung, ở huyện Phú Vang, Thừa Thiên ngày nay.

Theo một số tư liệu cho ta biết rằng, Tổ đã được chúa Nguyễn Phúc Thái thỉnh cầu sang Trung Hoa để thỉnh mời các danh Tăng, Phật tượng và Pháp khí từ Trung Hoa đến Đại Việt để phụng thờ và hành đạo. Tổ Sư rất được chúa Nguyễn Phúc Thái kính trọng.

Trong chuyến đi nầy theo bi ký ở chùa Quốc Ân, do chúa Nguyễn Phước Thụ (1725 – 1738) viết: “Ngài đã đi, đã về và đã hoàn thành sứ mệnh với nhiều thành công và nhiều thành tựu to lớn”.

Và về việc luận đạo và chứng ngộ, chúa Nguyễn Phúc Thụ viết ở bi ký rằng: “Trong những chỗ luận đạo, Ngài đã chạm đến chỗ uyên áo tột cùng”.

Trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu có những chính biến liên hệ đến Hoa kiều, Tổ sư Nguyên Thiều cũng đã bị chúa nghi ngờ có ít nhiều liên hệ, nên sự trọng vọng và ưu đãi không như thời chúa Nguyễn Phúc Thái, khiến sự hành đạo của Tổ đã có phần nào không thuận lợi ở thời điểm nầy, khiến các sử gia ngày nay đặt ra nhiều nghi vấn, nhưng chưa có sự trả lời nào có tính thuyết phục và thỏa đáng.

Thiền sư ni Diệu Nhân với bài kệ “Thị tịch”

y-nghia-bieu-tuong-hoa-sen-trong-dao-phat_phatgiaoorgvn-3-1035

Trước khi viên tịch, Tổ đã gọi tứ chúng vâng tập và dạy bảo những tông chỉ tu tập và hành đạo, rồi nói bài kệ khai thị cho tứ chúng xong, ngài ngồi ngay thẳng mà tịch, vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân, tức ngày 20 tháng 11 năm 1728, hưởng thọ 81 tuổi.

Bài kệ thị tịch của Ngài như sau:

“Tịch tịch cảnh vô ảnh

Minh minh châu bất dung

Đường đường vật phi vật

Liêu liêu không vật không”.

Nghĩa là:

“Vắng lặng gương không ảnh

Sáng soi ngọc không hình

Rõ ràng vật không vật

Rỗng không, không chẳng không”.

“Tịch tịch cảnh vô ảnh, minh minh châu bất dung”, nghĩa là “vắng lặng gương không ảnh, sáng soi ngọc không hình”. Hai câu nầy, Tổ dạy về “Thật tính Bát nhã”. Thực tính ấy bản nhiên thanh tịnh, xuyên suốt mọi không gian, nên không bị cách vật, không có năng sở, không có chủ thể, không có đối tượng; và tính ấy xuyên suốt mọi thời gian, nên không bị hủy diệt, nó không nhân ngã, không bỉ thử, nên bình đẳng tuyệt đối. Tính ấy kinh Kim Cang gọi là Vô vi; là Như. Tổ Huệ Năng gọi là “Bản lai vô nhất vật”; Minh Châu – Hương Hải, gọi là “Thể tính hư dung, chiếu dụng tự tại”.

Tháp mộ Tổ sư Nguyên Thiều

Tháp mộ Tổ sư Nguyên Thiều

“Đường đường vật phi vật, liêu liêu không vật không”, nghĩa là “rõ ràng vật không vật, rỗng lặng không chẳng không”. Hai câu nầy Tổ dạy về “quán chiếu Bát Nhã”. Nghĩa do quán chiếu Bát Nhã, thấy rõ mọi vật “Đương thể tức không”, nghĩa là ngay đó mà không và ngay nơi không mà muôn vật khởi hiện. Ngay đó mà không, kinh Kim Cang diễn tả bằng các mệnh đề phi và ngay nơi không mà muôn vật khởi hiện, kinh Kim Cang diễn tả bằng các mệnh đề thị. Các mệnh đề phi và thị của kinh Kim Cang được Phật sử dụng để diễn tả thực tại Như, không những ngay ở nơi vật mà ở ngay nơi phi vật; không phải ngay ở nơi không mà cả ngay ở nơi phi không. Vì vậy, Tổ Nguyên Thiều dạy: “Đường đường vật phi vật, liêu liêu không vật không”. Vật rõ ràng không phải là vật; không trống rỗng không phải là không, cái thấy nầy hoàn toàn không thuộc về cái thấy của nhục nhãn hay thiên nhãn mà nó là cái thấy quán chiếu duyên khởi để thấy rõ Tánh - không thuộc về tuệ nhãn và pháp nhãn. Còn cái thấy thuộc Phật nhãn thì lúc nào và ở đâu cũng Như, nghĩa là cái thấy không còn quán và chiếu, không còn năng và sở, không còn có cái tôi và cái phi tôi, không còn pháp và phi pháp. Như Tổ Nguyên Thiều đã hiển thị: “Tịch tịch cảnh vô ảnh, minh minh châu bất dung”.

Như vậy, kinh Kim Cang Bát Nhã qua tay của Tổ sư Nguyên Thiều chứng nghiệm và sử dụng để hành đạo, chỉ còn lại gọn gàng bốn câu và mỗi câu đều là Như. Như không phải chỉ ở mặt thể tánh mà còn cả mặt chiếu dụng; Như không phải chỉ ở mặt vật mà còn cả mặt phi vật; không phải chỉ ở mặt không mà còn cả mặt phi không. Như ấy là như thật tri kiến mà kinh Kim Cang muốn hiển thị mà Tổ đã chứng ngộ vậy. 

Tài liệu tham khảo:

- Quốc Sử Quán – Đại Nam Nhất Thống Chí – Duy Tân Tam Niên (1910).

- Quốc Sử Quán - Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên.

- Lịch Truyện Tổ Đồ.

- Thích Đại Sán – Hải Ngoại Kỷ Sự.

- Thích Mật Thể - Việt Nam Phật Giáo Sử Lược.

- Nguyễn Lang – Việt Nam Phật Giáo Sử Luận.

- Thích Thanh Từ - Thiền Sư Việt Nam.

- Cadière – La pagode Quốc Ân.

- Tạp Chí Sinologia No 1. 1949.

- B.A.V.H 1914, 1915.

- Văn bia Tháp Tổ Nguyên Thiều và chùa Quốc Ân.

Tiểu sử Thiền sư Siêu Bạch – Nguyên Thiều khai sơn Tổ đình Thập Tháp, Bình Định

Tác giả: TGH biên soạn

POSTED ON  - VIẾT BỞI: 

THIỀN SƯ SIÊU BẠCH – NGUYÊN THIỀU (1648 – 1728)

Thiền phái Lâm Tế đời pháp thứ 33. Khai sơn Tổ Đình Thập Tháp Di Đà – Bình Định, Tổ Đình Quốc Ân – Huế.

Bảo tháp nghìn đời hoa còn mọc.
Người đi muôn thuở dấu còn lưu.
Công ơn truyền đạo dường non cả
Hậu thế đời đời tạc dạ ghi.

Thiền sư Siêu Bạch – Nguyên Thiều (1648 – 1728)

Thiền sư Nguyên Thiều Hoán Bích (1648 – 1728) là một thiền sư người Trung Hoa, thuộc phái Lâm Tế chánh tông đời pháp thứ 33, sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ngài đã đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong.

Ngài họ Tạ, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu Tý, (tức là ngày 8/7/1648) tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông. Năm 19 tuổi xuất gia với Hòa thượng Bổn Quả Khoáng Viên tại chùa Báo Tư, Trung Hoa được Bổn sư trao cho Pháp danh Nguyên Thiều, pháp tự Hoán Bích thuộc đời pháp thứ 3 theo bài kệ của Ngài Đạo Mân Mộc Trần.

Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên
Minh như hồng nhật lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền.

Nếu tính theo dòng kệ truyền thừa của ngài Vạn Phong Thời Ủy thì Ngài thuộc đời pháp thứ 12 với pháp danh là Siêu Bạch.

Tổ Đạo Giới Định Tông
Phương Quảng Chứng Viên Thông
Hạnh Siêu Minh Thật Tế
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không
Như Nhựt Quang Thường Chiếu
Phổ Châu Lợi Ích Đồng
Tín Hương Sanh Phước Huệ
Tương Kế Chấn Từ Phong.

Bài kệ truyền thừa tại Tổ đình Thập Tháp, Bình Định

Năm Đinh Tỵ (1677) Ngài đi theo thuyền buôn đến phủ Quy Ninh, Đại Việt (tức Quy Nhơn – Bình Định ngày nay), lập chùa Thập Tháp Di Đà, Bình Định truyền bá Phật pháp tại vùng này.

Vào khoảng năm 1682 – 1684, dưới thời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) Ngài ra Phú Xuân ở xứ Thuận Hóa, ngài chọn chân đồi Hòn Thiên (chân núi Bân), phía trái núi Ngự Bình để dựng chùa Vĩnh Ân và tháp Phổ Đồng (nay là Tổ đình Quốc Ân, phường Phước Vĩnh, thành phố Huế).

Bia ký của nhà vua phong cho Thiền sư Nguyên Thiều

Hiện nay tông môn Tổ đình Thập Tháp Di Đà – Bình Định truyền thừa theo bài kệ của ngài Vạn Phong Thời Ủy. Tông môn chùa Quốc Ân – Huế truyền thừa theo bài kệ của Ngài Đạo Mân Mộc Trần.

Năm 1687, Ngài được chúa Nguyễn Phúc Thái cử về Trung Hoa để rước cao tăng sang truyền giới cho chư tăng Đại Việt, đồng thời thỉnh một số tượng Phật và đồ pháp khí từ Trung Hoa.

Năm 1695, Ngài được cử làm trụ trì chùa Phổ Thành ở làng Hà Trung (nay thuộc xã Vinh Hà, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế). Tại đây Ngài đã thiết trí một tượng Quan Âm bằng đá thỉnh từ Trung Hoa, nay vẫn còn.

Một hôm, Ngài họp môn đồ lại dặn dò mọi việc và truyền bài kệ rằng:

Tịch tịch cảnh vô ảnh
Minh minh châu bất dung
Đường đường vật phi vật
Liêu liêu không vật không.

Lặng lẽ gương không chiếu bóng
Sáng trưng ngọc chẳng thu hình
Rõ ràng vật không phải vật
Mênh mông không chẳng là không.

Đại ý Sư muốn khai thị với chúng tăng rằng “cái thể của pháp thân thanh tịnh sáng suốt như gương trong, không lưu lại một ảnh trần, như ngọc minh châu trong suốt bóng sáng không tì vết. Tuy hiện tiền mọi sự vật có muôn ngàn sai khác nhưng không phải là vật có thật. Còn cái thể pháp thân vắng lặng thường trú, vắng lặng nhưng không phải trống rỗng”.

Bảo tháp Tổ sư Nguyên Thiều tại Tổ đình Quốc Ân – Huế

Ngài viết kệ xong ngồi yên lặng thị tịch. Hôm ấy là ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (tức 20 tháng 11 năm 1728), thọ 81 tuổi. Đệ tử xây tháp ở bên đồi xóm Thuận Hóa làng Dương Xuân Thượng làm lễ nhập tháp để tôn thờ.

Nam mô từ Lâm Tế chánh tông tam thập tam thế, Thiên Đồng pháp phái, Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự, Sắc Tứ Hà Trung Tự, Sắc Tứ Quốc Ân Tự, Sắc Tứ Kim Cang Tự, khai sơn hữu kiến, huý thượng SIÊU hạ BẠCH, tự HOÁN BÍCH, hiệu THỌ TÔNG – NGUYÊN THIỀU, ngự tứ HẠNH ĐOAN Thiền Sư, TẠ công Đại Lão Tổ Sư.

 

Tiểu sử Thiền sư Siêu Bạch - Nguyên Thiều khai sơn Tổ đình Thập Tháp, Bình Định - Bồ Đề Phật Quốc Website (bodephatquoc.com)

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state