Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Thợ gốm Bhaggava (TB 140)
3. Bhaggava. A potter in Rājagaha in whose dwelling the Buddha met and conversed with Pukkusāti (M.iii.237). Bhaggava seems to have been a generic name for all potters, perhaps a special form of address used towards members of the kumbhakāra "caste." Thus we find in the books several instances of potters being addressed as "Bhaggava". E.g., DhA.i.33; J.ii.80, iii.382. At J.111.382 the potter's wife is addressed as "Bhaggavī." In the Samyutta Nikāya (S.i.36, 60) the Buddha addresses Ghatīkāra Brahmā as "Bhaggava"; he had been a potter of Vehalinga in his previous birth and the name "Ghatīkāra" itself means "jar maker." The Commentaries give no explanation of the word; perhaps the potters claimed their descent from Bhrgu. Bhaggava is sometimes given as an example of a gotta. E.g., Sp.i.160 (with Gotama). See also Bhaggavagotta.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:697

Các tên gọi khác

3. Bhaggava. A potter in Rājagaha in whose dwelling the Buddha met and conversed with Pukkusāti (M.iii.237). Bhaggava seems to have been a generic name for all potters, perhaps a special form of address used towards members of the kumbhakāra "caste." Thus we find in the books several instances of potters being addressed as "Bhaggava". E.g., DhA.i.33; J.ii.80, iii.382. At J.111.382 the potter's wife is addressed as "Bhaggavī." In the Samyutta Nikāya (S.i.36, 60) the Buddha addresses Ghatīkāra Brahmā as "Bhaggava"; he had been a potter of Vehalinga in his previous birth and the name "Ghatīkāra" itself means "jar maker." The Commentaries give no explanation of the word; perhaps the potters claimed their descent from Bhrgu. Bhaggava is sometimes given as an example of a gotta. E.g., Sp.i.160 (with Gotama). See also Bhaggavagotta.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Thợ gốm Bhaggava (TB 140)

3. Bhaggava. A potter in Rājagaha in whose dwelling the Buddha met and conversed with Pukkusāti (M.iii.237).

Bhaggava seems to have been a generic name for all potters, perhaps a special form of address used towards members of the kumbhakāra "caste." Thus we find in the books several instances of potters being addressed as "Bhaggava". E.g., DhA.i.33; J.ii.80, iii.382. At J.111.382 the potter's wife is addressed as "Bhaggavī."

In the Samyutta Nikāya (S.i.36, 60) the Buddha addresses Ghatīkāra Brahmā as "Bhaggava"; he had been a potter of Vehalinga in his previous birth and the name "Ghatīkāra" itself means "jar maker." The Commentaries give no explanation of the word; perhaps the potters claimed their descent from Bhrgu.

Bhaggava is sometimes given as an example of a gotta. E.g., Sp.i.160 (with Gotama).

See also Bhaggavagotta.

Xuất hiện trong Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Trung Bộ 140.Kinh Giới Phân Biệt (Dhātuvibhanga sutta)

 TÓM TẮT

Phật cùng nghỉ đêm trong một xưởng làm đồ gốm với Pukkusàti. Sau khi biết đấy là một thiện nam tử đã xuất gia do lòng tin đối với Ngài mặc dù chưa từng gặp Ngài, Phật giảng vắn tắt: Cái gọi là con người gồm có sáu giới, sáu xúc xứ, 18 ý hành và bốn thắng xứ. Sáu xúc xứ là mắt tai mũi lưỡi thân ý; 18 ý hành gồm sắc thanh hương vị xúc pháp chỗ trú của ba cảm thọ hỷ ưu và xả (cộng thành 18). Bốn thắng xứ gồm tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy tăng trưởng huệ thí, hãy tu học tịch tịnh. Rồi Phật giảng chi tiết như sau.

Chớ buông lung trí tuệ có nghĩa là nên biết rõ sáu giới tức địa thủy hoả phong không thức. Ðịa giới có trong thân và ngoài thân. Ðịa trong thân là tất cả những chất cứng bị chấp thủ, thuộc cá nhân như tóc lông móng răng da, thịt gân xương tủy thận. Chất cứng trong ngoài gì cũng thuộc về địa giới, cần phải thấy như thật với chánh trí là nó không phải của tôi, không phải là tôi, không phải tự ngã của tôi. Sau khi biết vậy, sinh tâm chán lìa, từ bỏ địa giới. Ðối với thủy (chất lỏng), hoả (hơi nóng), phong (động), không (lỗ hổng) cũng đều quán như vậy. Với thức trong sáng, vị ấy biết được lạc, khổ và bất khổ bất lạc. Do lạc xúc, lạc thọ khởi lên; và thức liền nhận biết đang cảm giác một lạc thọ. Do lạc xúc diệt, lạc thọ cũng diệt, và thức cũng nhận biết như vậy. Với hai cảm thọ kia (khổ và bất khổ bất lạc) cũng thế.

Khi xả còn lại được trong sáng, thuần tịnh, vị tỷ kheo có thể tập trung xả ấy vào hư không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng… nhưng xả ấy sẽ thành hữu vi. Nếu không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, không chấp thủ một sự vật gì ở đời, thì vị ấy sẽ không sợ hãi, tự chứng niết bàn, biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Mỗi khi cảm giác lạc, khổ hay bất khổ bất lạc, vị ấy biết tất cả cảm thọ đều vô thường, không nên đắm trước, không phải đối tượng để hoan hỷ. Vị ấy biết rõ khi cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu hay với sinh mạng là tối hậu (CT. - nghĩa là chỉ trong lúc mạng căn còn tiếp tục, không xa hơn thế). Vị ấy biết, khi thân hoại mạng chung, tất cả những cảm thọ sẽ trở thành thanh lương (vì vị ấy không chấp thủ, hoan hỷ trong đó). Tỷ kheo có được trí như vậy gọi là có tuệ thắng xứ, nghĩa là trí biết sự đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát của vị ấy không bị giao động vì căn cứ trên chân đế, niết bàn. Vị tỷ kheo thành tựu như vậy là thành tựu đế thắng xứ. Những chấp thủ của vị ấy trước kia bây giờ bị cắt đứt tận gốc rễ không còn sinh khởi trong tương lai, nên đây là huệ xả thắng xứ nơi vị ấy. Tham ái, phẫn nộ và si mê trước kia nơi vị ấy bây giờ cũng hoàn toàn bị chặt đứt tận gốc rễ như thân cây ta la, không còn khả năng sinh khởi, nên vị ấy thành tựu tịch tịnh thắng xứ, nghĩa là sự chấm dứt tham sân si. Khi những ngọn triều vọng tưởng không còn lay động một người đã vững trú trên bốn thắng xứ, vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh. Vị ấy không còn nghĩ về ta là thế này thế nọ hay sẽ là ngày nọ; không còn sanh, già chết, mong cầu gì.

Nghe xong bài pháp vi diệu ấy, Pukkusàti biết ngay đấy là đức Phật, và xin sám hối vì không biết nên đã gọi Ngài là hiền giả (bạn). Ông xin được thọ đại giới, nhưng khi vừa đi ra kiếm y bát thì bị bò húc chết. Khi các tỷ kheo hỏi về sanh thú của vị này, Phật dạy ông ấy đã đoạn trừ năm hạ phần kết sử, sẽ nhập niết bàn không còn trở lui đời này nữa.

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state