Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tì ni đa lưu chi ( 毘尼多流支, Vinītaruci; ? – 594) - Thiền sư Việt Nam
Tì-ni-đa-lưu-chi (tiếng Trung: 毘尼多流支, tiếng Phạn: Vinītaruci; ? – 594), cũng được gọi là Diệt Hỉ (滅喜), là một Thiền sư người Ấn Độ, từng sang Trung Quốc tham học và là môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán. Cuối đời ông xuống phương Nam truyền pháp và được tôn xưng là Tổ khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:494

Các tên gọi khác

Tì ni đa lưu chi , 毘尼多流支, Vinītaruci

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Tì ni đa lưu chi ( 毘尼多流支, Vinītaruci; ? – 594) - Thiền sư Việt Nam

Tì-ni-đa-lưu-chi

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Một phần của loạt bài về
Thiền sư Việt Nam
Ensō

Sơ khai[hiện]

Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi[hiện]

Thiền phái Vô Ngôn Thông[hiện]

Thiền phái Thảo Đường[hiện]

Thiền phái Trúc Lâm[hiện]

Lâm Tế tông[hiện]

Tào Động tông[hiện]

 Cổng thông tin Phật giáo

Tì-ni-đa-lưu-chi (tiếng Trung: 毘尼多流支, tiếng Phạn: Vinītaruci; ? – 594), cũng được gọi là Diệt Hỉ (滅喜), là một Thiền sư người Ấn Độ, từng sang Trung Quốc tham học và là môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán. Cuối đời ông xuống phương Nam truyền pháp và được tôn xưng là Tổ khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam.

Cơ duyên[sửa | sửa mã nguồn]

Sư là người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Sư thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp mọi nơi cầu học Phật pháp. Năm 574, Sư sang Trung Quốc và nhân đây có cơ hội yết kiến Tam tổ Tăng Xán tại núi Tư Không. Thấy cử chỉ uy nghiêm của Tổ, Sư bỗng đem lòng kính mộ, đứng trước vòng tay cung kính. Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng im suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tự ngộ, liền quỳ xuống lạy ba lạy. Tổ thấy vậy cũng chỉ gật đầu ba lần. Sư muốn đi theo hầu Tổ nhưng Tổ lại khuyên đến phương Nam giáo hóa.

Giáo hóa tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Sư sang Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ 6 (khoảng năm 580), cư trú tại chùa Pháp Vân (tức chùa DâuBắc Ninh ngày nay). Nơi đây Sư dịch bộ kinh Đại thừa phương quảng tổng trì sau khi đã dịch xong bộ kinh Tượng đầu tinh xá tại Trung Quốc.

Trước khi tịch, Sư gọi đệ tử là Pháp Hiền đến và phó chúc:

Tập tin:Tỳ Ni Đa Lưu Chi.jpg
Tượng Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi ở thượng điện chùa Pháp Vân (Dâu), Bắc Ninh nơi ông Trụ Trì
"Tâm ấn của chư Phật không có lừa dối, tròn như thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn, vốn không có chỗ sinh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa và cũng chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi... Tổ Tăng Xán khi Ấn khả chứng minh tâm này cho ta bảo ta mau về phương Nam giáo hóa. Đã trải qua nhiều nơi nay đến đây gặp ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến."

Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, thâu Xá-lợi và xây Tháp thờ cúng, nhằm niên hiệu Khai Hoàng đời nhà Tùy, năm 594.

Người ta cho rằng Sư là tổ Thiền tông Việt Nam. Nhưng cũng có khuynh hướng cho rằng Khang Tăng Hội mới là người khởi xướng dòng thiền tại Giao Chỉ. Dòng Thiền Tì-ni-đa Lưu-chi lấy kinh Tượng đầu tinh xá làm nền tảng, chú trọng tư tưởng Bát-nhã và tu tập thiền quán. Phái thiền này để lại ảnh hưởng rất lớn lên các vua đời nhà Lý như Lý Thái Tông.

Hệ thống truyền thừa của thiền phái này không được lưu lại đầy đủ, sử sách ghi chép lại không rõ, khi tỏ khi mờ, truyền được 19 thế hệ với Sư là Sơ tổ và chấm dứt với Y Sơn (mất năm 1213).

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán
.

 

(VINITARUCI) (? - 594)

(Tổ khai sáng dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam)

Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền Tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam.

Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy, Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được Tổ. Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính mộ, đến trước vòng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa:

- Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì lòng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài.

Tổ bảo:

- Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu.

Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ trì tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán.(Phật thuyết Tượng Đầu Tinh Xá Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng số 466)

Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân. (Chùa Pháp Vân cũng gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, hiện nay cách Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông. Chùa này thời Lý gọi là chùa Cổ Châu (làng Cổ Châu, huyện Siêu Loại); đời Trần gọi là chùa Thiền Định hay chùa Siêu Loại; đời Hậu Lê gọi là chùa Diên Ứng.) Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì. (Phật thuyết Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng số 275.)

Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo:

- Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế, nhiều đời Tổ sư cũng do như thế mà được, ta cũng do như thế được, ngươi cũng do như thế được, cho đến hữu tình vô tình cũng do như thế được. Tổ Tăng Xán khi ấn chứng tâm này cho ta, bảo ta mau về phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Đã trải qua nhiều nơi, nay đến đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến.

Nói xong, Sư chấp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, lượm xá-lợi năm sắc, xây tháp cúng dường. Năm ấy nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn nhà Tùy (594).

Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư:

          Mở lối nước Nam đến

          Nghe Ngài giỏi tập thiền.

          Hiện bày các Phật tánh

          Xa hiệp một nguồn tâm.

          Trăng Lăng-già sáng rỡ

          Hoa Bát-nhã ngạt ngào.

          Bao giờ được gặp mặt

          Cùng nhau bàn đạo huyền.

           Sáng tự Nam lai quốc      

          Văn quân cửu tập thiền     

          Ứng khai chư Phật tính      

          Viễn hợp nhất tâm nguyên 

          Hạo hạo Lăng-già nguyệt   

          Phân phân Bát-nhã liên.     

          Hà thời hạnh tương kiến    

          Tương dữ thoại trùng huyền.

Thiền Sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi (Vinitaruci) (? - 594) Tổ khai sáng dòng Thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi tại Việt Nam 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ (quangduc.com)
 

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,
Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (? - 594). Ngài là vị tổ khai sáng dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi tại Việt Nam.

Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 246 trong loạt bài giảng của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh dịch COVID-19.

Thiền sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam.
 

Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy, Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được Tổ. Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính mộ, đến trước vòng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa:

- Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì lòng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài.

Tổ bảo:

- Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu.

Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ trì tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán.


Sư Phụ giải thích: Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã có công lớn khi dịch bản kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán để cống hiến cho chúng đệ tử tu học. Kinh này được Đức Thế Tôn giảng tại núi “Đầu Voi” (Tượng Đầu) núi này tọa lạc giữa đường từ Bồ Đề Đạo Tràng đến núi Linh Thứu, trên núi này có ngôi tinh xá Tượng Đầu.


Sư phụ có kể chuyển, sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài đi đến vườn Lộc uyển hóa độ cho năm anh em Kiều Trần Như, sau đó Ngài trở lại Bồ Đề Đạo Tràng cảm hóa cho ba anh em ngài Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp theo đạo thờ Lửa, sau đó Ngài dẫn hơn 500 đệ tử này lên núi Tượng Đầu lập tịnh xá để lưu trú tu tập và cũng tại nơi đây Phật đã thuyết bài kinh Lửa và Kinh Tượng Đầu.


Kinh Tượng Đầu Tịnh Xá Phật nói về tư tưởng Bát Nhã, cốt tủy của Phật giáo. Phật dạy: “Trí dùng Thiền làm Thể. Thiền, Trí bình đẳng không có phân biệt. Dùng phương tiện quán Uẩn, Nhập, Giới, mười hai Nhân Duyên, sinh tử lưu chuyển, tướng của thiện ác giống như huyễn hóa, chẳng phải có, chẳng phải không có. Bồ Tát Ma Ha Tát nên như vậy quán nơi các Pháp “…..” Có 2 pháp môn giúp đại bồ-tát mau chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề: Một, pháp môn phương tiện; hai, pháp môn Bát-nhã. Vì thọ trì trí phương tiện có thể quán xét tất cả chúng sinh; thọ trì Bát-nhã có thể quán sát tất cả pháp không, trừ được nghi chấp”.


Sư phụ có nhắc đến 10 pháp quán trong như Kinh Tượng Đầu Tinh Xá như sau:

1.Quán nội giới của thân là không
2.Quán ngoại giới của thân là không
3.Quán nội giới, ngoại giới đều là không
4.Không bị chấp trước vào nhất thiết trí
5.Không bị chấp trước vào những phương tiện tu hành
6.Không bị chấp trước vào những địa vị tu chứng của bậc hiền thánh
7.Không bị chấp trước vào những thanh tịnh đạt được do hành đạo lâu ngày
8.An trụ ở bát nhã ba la mật
9.Không bị chấp trước vào công cuộc giảng luận giải thoát
10.Quán các chúng sanh phát khởi từ bi và lòng lân mẫn.

 

Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân . Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì(3).


Sư phụ giải thích: Chùa Pháp Vân cũng gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, hiện nay cách Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông. Chùa này thời Lý gọi là chùa Cổ Châu (làng Cổ Châu, huyện Siêu Loại); đời Trần gọi là chùa Thiền Định hay chùa Siêu Loại; đời Hậu Lê gọi là chùa Diên Ứng.
 

Tại chùa Pháp Vân (Chùa Dâu) này TS Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã giáo hóa một người đệ tử đắc pháp và thừa kế gia tài pháp bảo của Ngài đó là Sư Pháp Hiền.

Một hôm Sư gọi Pháp Hiền đang nhập thất nói lời khai thị trước khi Sư viên tịch:
“Tâm ấn của Chư Phật, không có lừa dối, tròn đầy thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn, vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế, nhiều đời tổ Sư cũng do như thế mà được, ta cũng do như thế mà được, người cũng do như thế mà được, cho để hữu tình vô tình cũng do như thế mà được”.


Nói xong, Sư an nhiên thị tịch.

Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư:
 

Mở lối nước Nam đến
Nghe Ngài giỏi tập thiền.
Hiện bày các Phật tánh
Xa hiệp một nguồn tâm.
Trăng Lăng-già sáng rỡ
Hoa Bát-nhã ngạt ngào.
Bao giờ được gặp mặt
Cùng nhau bàn đạo huyền.

(Sáng tự Nam lai quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tánh
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng-già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền.)



Sư Phụ giải thích, tâm ấn của chư Phật là từ ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi lấy trong kinh Tổng Trì ra để sử dụng, đó là tâm Phật của mỗi chúng sanh đồng đẳng như nhau, trùm khắp thái hư không có ngằn mé, bất sanh bất diệt luôn hằng có trong tất cả chúng sanh vạn loài, nhưng vì vọng tưởng điền đảo nên che lấp.
     Khi mê bùn vẫn là bùn
    Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen.
 


Cuối bài giảng Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Thượng Tọa Thích Thầy Chúc Hiền sáng tác để cúng dường lên ngài Thiền Sư:

Tham phương học đạo khắp sơn miền
Tây Trúc, Đông Nam gặp chướng duyên
Vũ Đế mê lầm toan diệt Phật
Lưu Chi ẩn nhẫn gắng tham thiền
Tư Không Tăng Xán truyền tâm diệu
Giao Chỉ Tỳ Ni xiễn lẽ huyền
Suối đạo nguồn thiền tuôn dõng xuất
Tượng Đầu Tinh Xá mở nguồn thiêng...!
 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng bài pháp về Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Ngài xuất thân từ Thiên Trúc Ấn Độ, thuở nhỏ Sư có chí khác thường, bước đường lưu phương của Sư như có một lực vô hình dẫn dắt Sư đến Trung Hoa đi vào núi để gặp Tam tổ Tăng Xán, Tam Tổ dạy Sư về phương nam, vào đất Giao Châu (Việt Nam), trụ trì chùa Pháp Vân, Sư truyền “Tâm Ấn của Chư Phật”  cho đệ tử Pháp Hiền. Chúng con hàng đệ tử Việt Nam được phước duyên đón nhận Chân Pháp Bát Nhã Siêu Việt này của Ngài.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).     



246_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Ty Na Da Luu Chi
Bài kệ truy tán phong tặng
Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi của Vua Lý Thái Tông
đã nói lên tất cả công hạnh của Ngài .

ĐÃ THÂM HIỂU CỐT TUỶ CỦA THIỀN TÔNG .
ĐÃ ĐẠT BÁT NHÃ TRÍ .



Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp sau khi đã được nghe một pháp thoại quá tuyệt vời về Tổ khai sáng dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi và đã khắc ghi vào tâm con về Trí Bát Nhã và pháp Thiền Không Quán . Kính tri ân Thầy đã khởi xướng lại các bài pháp thoại về Tổ Sư Thiền Ấn, Trung và Việt Nam quá sâu sắc trong mùa đại dịch và đã giải thích rõ ràng các tư tưởng trong kinh văn để kết nối lại những gì còn đang bị che lấp trong màn vô minh mà các hành giả còn sơ cơ như con đây đang ảo tưởng . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc Thầy pháp thể khinh an, HH


Kính ngưỡng Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi ...

Ngài đã mang phương pháp Thiền độc đáo vào nước Việt

Dựa trên lời dạy Đức Phật qua hai bộ kinh (1)

Lời phó chúc cho đệ tử nối pháp đã chứng minh (2)

Và ảnh hưởng rộng lớn lan truyền vào đời Lý !


 

Bài thơ truy tán phong tặng đầy nghĩa ý (3)

Như công hạnh Ngài trong tích sử còn ghi (4)

Tượng Ngài nơi Chánh điện Chùa Pháp Vân xưa trụ trì (5)

Trên 200 tăng sinh ban đầu và 19 truyền thừa nối tiếp !
 

Kính tri ân Giảng Sư giúp tham khảo thêm chi tiết

Núi Tượng Đầu có tịnh xá thế nào (6)

Tư tưởng Tâm Ấn từ Mật Giáo ra sao (7)

Từ đấy dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi được khai sáng (8)

Nam Mô Tỳ Ni Đa Lưu Chi Thiền Sư tác đại chứng minh .
 

Huệ Hương

Melbourne 15/6/2021

 

 

(1) Tượng Đầu Tinh Xá Kinh và Đại thừa Phương Quảng Tổng Trì Kinh

Kinh Tượng Đầu Tinh Xá nói về bản chất của giác ngộ, tức là bồ đề. Cũng giống như các Kinh thuộc hệ Bát Nhã, Kinh Tượng Đầu Tinh Xá có tính phá chấp mạnh mẽ và đặc biệt chú trọng thiền quán.

“Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Bồ đề siêu việt tam giới, siêu việt ngôn ngữ, siêu việt văn tự, không cần địa điểm nương tựa. Lại nữa Văn Thù, an trú vào nơi không an trú tức là an trú ở bồ đề; an trú ở nơi không chấp trước tức là an trú ở bồ đề; an trú ở pháp không tức là an trú nơi bồ đề; an trú nơi chân lý tất-cả-các-pháp-không-có-thể-tướng tức là an trú nơi bồ đề; an trú nơi không-tăng-không-giảm tức là an trú nơi bồ đề…

Sau khi xác định bản chất của việc an trụ Bồ đề như vậy, hành giả phải “dấy lên lòng đại từ đối với tất cả chúng sinh” và thực hành lục độ Ba la mật. Ở đây, năm Ba la mật trước gồm Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định thuộc về hữu vi, hữu lậu, hữu lượng, và trụ hạnh. Chỉ có Ba la mậtthứ 6 là Bát nhã Ba la mật là thuộc về vô vi, vô lậu, vô lượng và vô trụ hạnh. Các hạnh này hay khiến cho Bồ tát Ma ha tát mau chóng chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Tuy nhiên, khi quá nhấn mạnh về Bát nhã Ba la mật, người ta dễ có cảm tưởng rằng, chỉ cần tu Bát nhã Ba la mật là đủ để chứng ngộ, an trụ Bồ đề.

 

Vì vậy mà Tổ dịch tiếp kinh Đại thừa Phương Quảng Tổng trì để cảnh giác việc này và khẳng định vai trò quan trọng của việc thực hành đủ cả sáu Ba la mật:

“Như ông đã nói, ngày xưa ta từng trong sáu mươi kiếp thực hành bố thí Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật và bát nhã Ba la mật, mỗi thứ 60 kiếp. Kẻ ngu si kia dựng lời nói bậy là chỉ tu một Bát nhã Ba la mật thì thành được bồ đề. Không có chuyện đó đâu. Kẻ đó mang lấy quan điểm hư vô nên có lời thuyết pháp bất tịnh như vậy…”

Như vậy, “tổng trì” ở đây mang ý nghĩa là việc nắm giữ, thực hành tổng thể các phương pháp, phương tiện tu hành, hơn là ý nghĩa là một câu mật chú, chân ngôn bí mật (đà la ni).

Kinh Tượng Đầu Tinh Xá cũng dạy về vai trò của việc thực hành thiền quán: “Lại nữa, kẻ trí giả phải lấy thiền làm thể; thiền tri phải bình đẳng, không có phân biệt, bởi vì đó là phương tiện vậy. Phải quán ấm (ngũ ấm), nhập (lục nhập), giới (thập bát giới), mười hai nhân duyên, sự lưu chuyển của sinh tử về các hình tướng thiện ác đều như huyễn hóa, không phải hữu cũng không phải vô.”

Bản Kinh này cũng dạy về mười phương pháp thiền quán nội ngoại để phá trừ các chấp trước, như sau:

1) Quán nội giới của thân là không,

2) Quán ngoại giới của thân là không,

3) Quán các pháp trong và ngoài đều không,

4) Không bị chấp trước vào nhất thiết trí,

5) Không bị chấp trước vào những phương tiện tu hành,

6) Không bị chấp trước vào các địa vị tu chứng của các bậc hiền thánh,

7) Không chấp trước vào sự thanh tịnh đạt được do sự hành đạo lâu ngày,

8) An trú ở Bát Nhã Ba La Mật,

9) Không bị chấp trước vào công việc giảng luận giáo hóa,

10) Quán các chúng sinh phát khởi từ bi và lòng lân mẫn.[12]

Như vậy, Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã căn cứ vào Kinh điển mà truyền dạy một phương pháp tu tập hoàn toàn mới,

 

( 2) Khi phó chúc cho Đệ Tử Pháp Hiền Ngài đã khai thị

 

- Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. ..... Tổ Tăng Xán khi Ấn khả chứng minh tâm này cho ta bảo ta mau về phương Nam giáo hóa. Đã trải qua nhiều nơi nay đến đây gặp ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến."

(Lời khai thị của Tổ Sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi )

 

(3) Về sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư:

Mở lối nước Nam đến
Nghe Ngài giỏi tập thiền.
Hiện bày các Phật tánh
Xa hiệp một nguồn tâm.
Trăng Lăng-già sáng rỡ
Hoa Bát-nhã ngạt ngào.
Bao giờ được gặp mặt
Cùng nhau bàn đạo huyền.

(Sáng tự Nam lai quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tánh
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng-già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng huyền.)

 

(4) Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam.

Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy, Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được Tổ. Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính mộ, đến trước vòng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa:

- Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì lòng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài.

Tổ bảo:

- Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu.

Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ trì tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán(1).

Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân(2). Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì(3).

Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo:

- Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà chẳng phải chẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế, nhiều đời Tổ sư cũng do như thế mà được, ta cũng do như thế được, ngươi cũng do như thế được, cho đến hữu tình vô tình cũng do như thế được. Tổ Tăng Xán khi ấn chứng tâm này cho ta, bảo ta mau về phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Đã trải qua nhiều nơi, nay đến đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời huyền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đi của ta đã đến.

Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, lượm xá-lợi năm sắc, xây tháp cúng dường. Năm ấy nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn nhà Tùy (594).

(5)

Chùa Pháp Vân cũng gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, hiện nay cách Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông. Chùa này thời Lý gọi là chùa Cổ Châu (làng Cổ Châu, huyện Siêu Loại); đời Trần gọi là chùa Thiền Định hay chùa Siêu Loại; đời Hậu Lê gọi là chùa Diên Ứng.

 

Nơi đây có nhiều Thiền sư của dòng thiền này vẫn giữ nếp sống tu hành khổ hạnh, giữ 12 hạnh đầu đà, vốn là một truyền thống tu hành phổ biến của miền Nam Thiên Trúc. , truyền được 19 thế hệ với Sư là Sơ tổ và chấm dứt với Y Sơn (mất năm 1213).

(6) tinh xá Tượng Đầu, tại thành Già-da

Bấy giờ, Như Lai thành Phật chưa lâu, sau khi độ 5 anh em Ngài Kiều Trần Như, Ngài đã trở về Bồ Đề Đạo Tràng sau đó thu nạp 3 Thầy thờ thần lửa ( Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp,Già Gia Ca Diếp, . Na Đề Ca Diếp Và hơn 900 đệ tử ) nên Ngài đã dẫn số đệ tử lên núi để giảng dạy và ta biết được điều này trong lời mở đầu của bộ kinh Tượng đầu tinh xá như sau :

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, đức Bà-già-bà, ngụ tại tinh xá Tượng Đầu, thành Già-da

Bấy giờ, Như Lai thành Phật chưa lâu, Ngài cùng với một nghìn đại tì-kheo và vô số chúng đại bồ-tát nhóm họp. Các đại tì-kheo này là những người xưa kia đã từng theo tiên nhân Loa Kế[3] tu tập, các vị ấy đều là bậc A-la-hán, việc làm đã xong, buông bỏ gánh nặng, thoát khỏi sinh tử, sạch các phiền não, đạt được không tuệ bình đẳng, trí tâm chính định, hiểu biết mọi việc, đã đến bờ giác.

Lúc ấy Thế Tôn ngồi yên lặng tư duy, nhập các môn tam-muội, quán sát khắp pháp giới, tự biết đã thành đạo, đầy đủ Nhất thiết trí, các việc làm đã xong, buông bỏ mọi gánh nặng, vượt qua dòng sinh tử, không còn tham lam bỏn xẻn, nhổ gai ba độc, không còn khát ái[4], gom thuyền đại pháp, gióng trống đại pháp, thổi kèn đại pháp, dựng cờ đại pháp, đã đoạn sinh tử. Ngài diễn thuyết chính pháp:

- Đóng cửa các đường ác, mở cửa các đường thiện, lìa hẳn những cõi xấu, dạo nơi cõi tịnh. Ta quán sát pháp này, ai là người tu tập bồ-đề, ai là người chứng bồ-đề và ai là người sắp chứng bồ-đề? Từ đời quá khứ, hiện tại cho đến vị lai, ai là người chứng đắc? Là thân chứng đắc hay tâm chứng đắc?

 

( 7) Cùng với tư tưởng Bát Nhã, chúng ta có tư tưởng của Mật Giáo qua kinh Tổng Trì. Tổng trì có nghĩa là thu góp lại, giữ gìn lại đừng cho rơi rụng đi. Danh từ Tâm Ấn (the seal of the heart) mà chúng ta nghe nói đến trong thiền tông, là một danh từ có nguồn gốc ở Mật Giáo, trong kinh Đại Nhật, và thầy Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi là người đầu tiên đã dùng danh từ Tâm Ấn.

Tại sao chúng ta biết được thầy Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi đã dùng danh từ Tâm Ấn? Tại vì trong sách Thiền Uyển Tập Anh có nói đến điều này.

Trước khi thầy Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi tịch, thầy có dặn đệ tử Pháp Hiền mấy câu: Tâm Ấn của chư Phật không lừa dối ta đâu. Tâm Ấn ấy tròn đầy như thái hư, không thiếu, không dư, không đi, không tới, không được, không mất, không nhất nguyên, không đa nguyên, không thường, không đoạn, không sinh, không diệt.

Cuối cùng thì thầy nói: Khi Tăng Xán ấn cho ta cái tâm này (ấn có nghĩa là in xuống) thì có bảo ta nên về phương Nam gấp để mà giao tiếp.

 

 

(8) đa số các học giả Việt Nam đều có chung một số nhận định về Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi như sau:

1) Tổ là người Thiên Trúc, đã đi khắp Ấn Độ để học hỏi Phật pháp.

2) Tổ là đệ tử được truyền tâm pháp của Tam tổ Tăng Xán

3) Tổ chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng Thiền học của Tăng Xán

4) Tổ đã nghe lời của Tăng Xán sang Giao Châu truyền bá Thiền Tông Trung Hoa.





 

***
Trở về mục lục bài giảng của TT Nguyên Tạng

về Chư Vị Thiền Sư Việt Nam

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state