Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tôn Giả A Nan Đà Ananda – Đa Văn Đệ Nhất
Trong hàng Thánh chúng hay thập đại đệ tử của Đức Phật, A Na Đà (Ananda) là vị trẻ nhất. Tôn giả là vị luôn luôn túc trực bên cạnh Phật, Tôn giả là vị có nhiều đặc điểm nhưng điểm đặc biệt nhất của Ngài là trí nhớ. Tôn giả nhớ hết tất cả kinh điển do Phật tuyên giảng. Bởi thế Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có kệ khen tặng A Nan rằng:
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:26

Các tên gọi khác

A Nan Đà gọi ngắn gọn là A Nan, em ruột của Đề Bà Đạt Đa, con thứ của Bạch Phạn Vương, tức là em con chú của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. A Nan sinh ra trong đêm Đức Phật thành đạo dưới cội bồ đề, cho nên tên của Ngài còn có nghĩa là Khánh Hỷ (vui mừng). A Nan rất khôi ngô tuấn tú, thông minh, hòa nhã và vui vẻ. Khi trở về thành Ca Tỳ La Vệ, thấy A Nan Đức Phật biết A Nan sẽ là vị kế thừa mạng mạch Phật pháp sau này. Cho nên khi dọn chỗ ở, Đức Phật đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận phòng A Nan. Mỗi buổi sáng mở cửa nhìn qua, A Nan thấy Phật và cung kính bái chào. Ngày ngày chú bé A Nan lân la bên Phật và quạt cho Phật khi nóng nực.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Tôn Giả A Nan Đà Ananda – Đa Văn Đệ Nhất

I.Giới thiệu chung

A-nan-đà (zh. 阿難陀, sa., pi. ānanda, bo. kun dga` bo ཀུན་དགའ་བོ་), cũng gọi ngắn là A-nan, dịch nghĩa là Khánh Hỉ (慶喜), Hoan Hỉ (歡喜), sinh 605 - 485 TCN. Theo tài liệu ghi nhận, A-nan sinh năm 605 TCN - là anh em chú bác với Đức Phật vì cha của ông, vua Amitodana, là em vua Suddhodana – tức Tịnh Phạn Vương, thân phụ của Đức Phật. A-nan-đà gia nhập giáo hội hai năm sau ngày thành lập vào lúc 18 tuổi, trở thành thị giả thân cận của Đức Phật. A-nan-đà tham gia Tăng đoàn cùng hai người anh của ông là A-na-luật – vị A-la-hán được xưng tụng là Đệ nhất Thiên nhãn trong hàng Thanh văn của Phật – và Đề-bà-đạt-đa, người sau này ly khai khỏi Tăng đoàn. Tôn giả được tôn xưng là một trong Thập đại đệ tử của Phật Thích-ca Mâu-ni.

II.Thông tin tổng quát

  1.Tên gọi 

A-nan-đà  cũng gọi ngắn là A-nan

  2.Thông tin cá nhân

     a.Năm sinh năm mất 

             sinh 605 - 485 TCN

     b.Cha mẹ , họ hàng

- là anh em chú bác với Đức Phật vì cha của ông, vua Amitodana, là em vua Suddhodana – tức Tịnh Phạn Vương, thân phụ của Đức Phật.

     c.Giới tính : Nam

     d.Quê quán :  Capilapattu (Ca Tỳ La Vệ, Xá Vệ)

   3.Lần đầu gặp Phật

   4.Thời gian xuất gia

A-nan-đà gia nhập giáo hội hai năm sau ngày thành lập vào lúc 18 tuổi

   5.Vai trò 

A-nan-đà trở thành thị giả của Phật là vị thị giả cuối cùng ( trước đó còn vài vị khác)

   6.Chứng đắc

A la hán ( sau khi Phật nhập diệt mới đắc )

III.Thông tin chi tiết

    1.Cuộc đời

Tôn giả nổi tiếng với trí nhớ phi thường, đã ghi nhớ hết những lời Phật dạy trong suốt hàng chục năm truyền đạo. Tôn giả là người đọc tụng lại tạng Kinh trong lần kết tập thứ nhất để tăng chúng ghi nhớ và truyền lại cho đời sau, và tôn giả cũng được xem là Nhị tổ của Thiền tông Ấn Độ. Ngoài ra, tôn giả cũng là người đầu tiên cung Phật phát minh ra "áo cà sa" - trang phục nghi lễ về sau của các chư tăng, chư ni nhà Phật. Có thể nói: đạo Phật còn được duy trì tới hàng nghìn năm, kinh Phật còn được lưu truyền cho bao đời sau, một phần lớn là nhờ công lao của Tôn giả A-nan.

Theo kinh sách, tôn giả A-nan-đà là người rất nhẫn nhục, hết lòng phụng sự đức Phật. Tôn giả chỉ chấp nhận làm người hầu cận cho Phật khi được Phật hứa rằng không vì thế mà được quan tâm hơn các vị khác. A-nan-đà cũng chính là người khám phá ra âm mưu giết Phật của Đề-bà-đạt-đa. A-nan-đà cũng là người bênh vực cho việc nữ giới được gia nhập tăng đoàn để học hỏi giáo pháp. Nhờ sự can thiệp của Tôn giả mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn. Chính vì điều này mà trong lần Kết tập thứ nhất, A-nan-đà bị Tăng-già chê trách. Tương truyền rằng, bảy ngày sau khi Phật nhập Niết-bàn, A-nan-đà mới giác ngộ, đắc quả A-la-hán trong đêm trước lần kết tập thứ nhất. Tôn giả A-nan nhập Niết-bàn vào năm 485 TCN, ở tuổi 120 tuổi ở giữa sông Hằng (ranh giới giữa hai nước Magadha và Tì-xá-ly).

Nếu định nghĩa theo Ấn Độ giáo (Hinduism) thì A-nan-đà không phải là tâm trạng khánh hỉ được tạo ra bởi một đối tượng mà hơn nữa, nó là một niềm vui của một trạng thái nằm trên mọi tư duy nhị nguyên, những cặp đối đãi. Hệ thống triết lý Vedānta quan niệm rằng, một tâm thức thoát khỏi suy nghĩ—nghĩa là tâm thức không còn vướng mắc những khái niệm như sinh, tử, khổ não, nói chung là mọi tư duy—chính là A-nan-đà, sự an vui thuần túy. Khi miêu tả, diễn giải những danh từ rất trừu tượng như "Brahman", hệ thống Vedānta sử dụng thành ngữ "Sat-Cit-Ānanda", nghĩa là "Chân lý—Nhận thức tuyệt đối—A-nan-đà" và A-nan-đà ở đây là sự an vui tuyệt đối, vô lượng mà hành giả chỉ có thể cảm nhận được trong lúc nhập Định (sa. samādhi). Trong các dòng tu theo truyền thống của Đại sư Śaṅkara thì A-nan-đà là chữ cuối của nhiều danh hiệu, ví dụ như Vivekānanda.

    2.Câu chuyện tiền thân

    3.Các kiếp tương lai

IV.Xuất hiện các bài kinh

       1.Nikaya

       2.A Hàm

       3.Khác

V.Các dòng thông tin

1. Phật giáo Đại Thừa

2. Phật giáo nguyên thủy

3. Kim Cương Thừa

4. Khác

VI.Những vấn đề tranh cãi

Tranh cãi về tuổi của trưởng lão A Nan Đà . Theo 1 số dòng Phật giáo nguyên thủy thì A Nan Đà sinh cùng ngày với Phật ( bằng tuổi) , còn theo Phật giáo Đại thừa hay phim Cuộc đời Đức Phật ( Đường xưa mây trắng ) thì A nan nhỏ tuổi hơn Phật. Khi Phật thành đạo 36 tuổi thì A Nan Đà mới chỉ khoảng 18 tuổi.

Nếu A Nan Đà bằng tuổi Phật thì lúc gặp nạn Ma Đăng Già , trưởng lão phải xấp xỉ 60 tuổi ( già quá rồi) , vả lại Đức Phật chẳng lẽ lại chọn 1 vị thị giả bằng tuổi mình ( khi Phật đã đứng tuổi).

VII.Khác

.

 III. Thông tin thêm từ sách Đại Phật Sử

  1. ĐẠI TRƯỞNG LÃO ĀNANDA

    1. Nguyện vọng quá khứ

Trở lại vào thời cách đây trên một trăm ngàn đại kiếp, Đức Phật Padumuttara sanh vào trong kinh thành Hamsavati, con trai của vua Ānanda và hoàng hậu Sujāta. Hai vị Thượng thủ Thinh văn của Đức Phật là trưởng lão Devala và trưởng lão Sujāta. Hai vị nữ Thinh văn là trưởng lão ni Amitā và trưởng lão ni Asamā. Thị giả của Đức Phật là Trưởng lão Sumana. Đức Phật có một trăm ngàn tỳ khưu đệ tử và đặc ân phục vụ các nhu cầu của Ngài dành cho vua cha. Đức Phật và chúng Tăng trú ngụ gần kinh thành và các ngài đi khất thực hằng ngày từ nơi đây.

Trước khi từ bỏ thế gian, Đức Phật Padumuttara có một người em trai cùng cha khác mẹ, hoàng tử Sumana (trưởng lão Ānanda tương lai). Vua Ānanda sắc phong cho hoàng tử Sumana làm lãnh chúa một châu quận, cách kinh đô một trăm hai mươi do tuần. Thỉnh thoảng hoàng tử về thăm phụ vương và người anh cả là Đức Phật Padumuttara.

Một hôm nọ, một cuộc nổi loạn ở vùng biên giới xảy ra. Hoàng tử tâu vấn đề lên đức vua, đức vua nói rằng: “ Không phải con được chỉ định đến đó để giữ gìn luật pháp và trật tự sao?” Hoàng tử khi nhận được câu trả lời của đức vua bèn thân chinh đi dẹp loạn và lập lại hòa bình. Đức vua lấy làm hoan hỉ và cho gọi người con trai đến yết kiến mình.

Hoàng tử Sumana lên đường đi đến hoàng cung có một ngàn quan chức tháp tùng. Trên đường đi vị ấy bàn bạc với họ về phần thưởng mà vị ấy nên nói ra nếu phụ vương ban cho vị ấy một đặc ân. Một số quan chức thì đề nghị voi, ngựa, thị trấn, ngọc ngà, v.v… Nhưng một vài người có trí trong số họ đề nghị rằng:

“ Thưa hoàng tử, hoàng tử là con trai của đức vua. Những phần thưởng về vật chất không phải là quả cho ngài. Ngài có thể có chúng nhưng phải xa lìa chúng sau khi chết. Ngài nên xin một đặc ân mà thuộc về phước báu. Riêng phước báu sẽ là tài sản thực sự của

ngài khi ngài rời khỏi kiếp sống này. Thế nên, nếu đức vua ban cho ngài một đặc ân thì hãy xin được hầu hạ Đức Phật trong một mùa an cư.”

Hoàng tử rất hoan hỉ với ý tưởng này. “ Các vị quả thật là những người bạn của ta. Ta chưa bao giờ có một ý tưởng cao quý như vậy. Ta chấp nhận lời khuyên của các bạn.” Khi đến hoàng cung, hoàng tử được đón tiếp bằng tình thương to lớn và sự quý mến của phụ vương, người ôm hoàng tử hôn lên trán, và nói rằng, “ Này con, Trẫm sẽ ban cho con một đặc ân, con muốn đặc ân nào hãy nói ra.” Hoàng tử đáp lại, “ Tâu đại vương, con ước kiếp sống hiện tại sanh ra kết quả dồi dào cho tương lai thay vì ra đi mà không có gì cả. Với mục đích ấy, con muốn hầu hạ anh cả của con là Đức Phật trong ba tháng của mùa an cư. Cầu xin phụ vương ban cho con đặc ân này!” Đức vua đáp lại, “ Này con thân, trẫm không thể ban đặc ân này. Hãy chọn đặc ân khác.” “ Tâu phụ vương,” hoàng tử Sumana nói, “ lời nói của vị hoàng đế vững như núi đá. Con không muốn điều gì khác. Con chỉ chọn ước muốn ấy thôi.”

Khi ấy đức vua nói rằng, “ Này con thân, không ai biết Đức Phật nghĩ gì. Nếu Ngài không chấp nhận sự thỉnh mời của con thì sự nhượng bộ của trẫm có lợi ích gì?” “ Trong trường hợp ấy, thưa phụ vương, con sẽ đi và tự mình thỉnh cầu Đức Phật và tìm hiểu xem Ngài nghĩ gì về thỉnh cầu của con,” hoàng tử Sumana đáp lại. Sau khi khiến đức vua chấp nhận đặc ân, hoàng tử Sumana đi đến tịnh xá của Đức Phật.

Khi hoàng tử đến nơi thì Đức Phật vừa mới đi vào phòng riêng của Ngài sau khi đã độ thực xong. Hoàng tử Sumana đi đến giảng đường Chánh pháp và gặp các tỳ khưu ở đó. Họ hỏi vị ấy đến với mục đích gì: “ Thưa chư đại đức, con đến để gặp Đức Thế Tôn. Thưa vị nào chỉ giùm con hiện Đức Phật đang ở đâu?” “ Thưa hoàng tử,” các vị tỳ khưu nói, “ chúng tôi không có quyền gặp Đức Phật, và khi nào có dịp chúng tôi cũng muốn yết kiến Ngài.” “ Vậy, ai có quyền ấy?” Hoàng tử dò hỏi. “ Thưa hoàng tử, tỳ khưu Sumana có quyền ấy,” họ nói. “ Đại đức Sumana giờ đang ở đâu?”

Sau khi được dẫn đến chỗ của tỳ khưu Sumana, Hoàng tử đi đến đảnh lễ và nói rằng: “ Thưa đại đức, con muốn yết kiến Đức Thế Tôn. Xin đại đức hoan hỉ dẫn con đến gặp Ngài.”

Tỳ kheo Sumana nhập thiền đề mục āpo-kasina ngay trước mặt hoàng tử, và nguyện cho quả đất biến thành nước, vị ấy lặn vào nước (do tâm tạo ra) và xuất hiện bên trong Hương phòng của Đức Phật. Đức Phật hỏi vị ấy đến có việc gì. Tỳ khưu Sumana trả lời, “ Bạch Thế Tôn, hoàng tử Sumana muốn yết kiến Thế Tôn.” “ Nếu vậy, hãy sửa soạn chỗ ngồi cho Như Lai,” Đức Phật nói. Tỳ khưu Sumana biến mất vào trong nước từ Hương phòng của Đức Phật và hiện lên từ dưới nước ngay trước mặt hoàng tử trong tịnh xá, và sửa soạn chỗ ngồi dành cho Đức Phật. Hoàng tử Sumana rất ấn tượng về năng lực thần thông của tỳ khưu Sumana.

Đức Phật Padumuttara ra khỏi Hương phòng và ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Hoàng tử Sumana đảnh lễ Đức Phật và trao đổi những lời chào hỏi thân mật với Ngài. “ Hoàng tử đến đây từ lúc nào, thưa hoàng tử?” Đức Phật hỏi. “ Bạch Thế Tôn, con đến đây vừa khi Thế Tôn trở về Hương phòng,” hoàng tử đáp lại, “ các tỳ khưu nói rằng các vị không có quyền gặp Thế Tôn khi họ muốn, và đã dẫn con đến đại đức Sumana. Về phần đại đức Sumana, vị ấy vừa nói xong một từ thì đã thông báo sự hiện diện của con với Thế Tôn và cũng sắp xếp để con gặp được Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, con đoán chừng đại đức Sumana thân thiết với Thế Tôn trong Giáo pháp này.”

“ Thưa hoàng tử, điều mà hoàng tử nói là đúng sự thật. Tỳ khưu Sumana thân thiết với Như Lai trong Giáo pháp này.” “ Bạch Thế Tôn, phước báu nào dẫn dắt một người trở thành tỳ khưu đệ tử thân thiết với Đức Phật?” “ Thưa hoàng tử, bằng cách bố thí, trì giới và thọ trì các điều học, người ta có thể phát nguyện trở thành tỳ khưu đệ tử thân thiết với Đức Phật.” Hoàng tử Sumana lúc bấy giờ có cơ hội chân chánh để thỉnh Đức Phật đến cung điện của vị ấy để cúng dường. Vị ấy nói rằng, “ Bạch Thế Tôn, con muốn trở thành tỳ khưu đệ tử thân thiết với Đức Phật tương lai giống như đại đức Sumana. Cầu xin Thế Tôn thọ lãnh sự cúng dường vật thực của con vào ngày

mai.” Đức Phật im lặng nhận lời. Hoàng tử trở về những khu vực tạm thời của vị ấy trong kinh thành và lo sửa soạn cho sự cúng dường to lớn diễn ra bảy ngày trong những khu vực tạm thời của vị ấy.

Vào ngày thứ bảy hoàng tử Sumana đảnh lễ Đức Phật và bạch rằng: “ Bạch Thế Tôn, con đã được sự đồng ý của vua cha là được phép hầu hạ Đức Thế Tôn trong ba tháng mùa an cư. Cầu xin Ngài cho phép con được hầu hạ trong ba tháng mùa an cư.” Đức Phật quán xét xem lợi ích sẽ phát sanh cho hoàng tử hay không nếu thỉnh cầu của vị ấy được chấp thuận, và Ngài thấy rằng lợi ích sẽ phát sanh, nói rằng: “ Này hoàng tử, Thế Tôn thích ở nơi vắng vẻ.”

“ Bạch Thế Tôn, con hiểu! Bạch Thiện thệ, con hiểu!” hoàng tử nói. “ Bây giờ con sẽ xây dựng một tịnh xá dành riêng cho Thế Tôn. Khi nào hoàn thành, con sẽ sai sứ giả thỉnh Đức Thế tôn, khi ấy cầu xin Ngài và một trăm ngàn vị tỳ khưu đi đến tịnh xá của con.” Hoàng tử ra đi sau khi được Đức Phật đồng ý. Rồi vị ấy đi yết kiến phụ vương và nói rằng, “ Tâu phụ vương, Đức Phật đã đồng ý đi đến chỗ của con. Khi con sai sứ giả đi báo tin thời gian Đức Phật đi đến thì xin phụ vương lo liệu để hộ tống Đức Phật.” Vị ấy đảnh lễ đức vua và rời khỏi hoàng cung. Rồi vị ấy xây dựng một chỗ nghĩ ngơi dành cho Đức Phật ở những chặng đường cách nhau một do tuần, dọc theo con đường dài 120 do tuần từ kinh đô đến khu vực của vị ấy. Khi trở về thị trấn, hoàng tử chọn một khu vực thích hợp để xây dựng một tịnh xá dành cho Đức Phật. Hoàng tử mua chỗ đất ấy, là một khu vườn do trưởng giả Sobhana sở hữu, với giá một trăm ngàn. Và bỏ ra thêm một trăm ngàn khác để xây dựng.

Vị ấy xây dựng một Hương phòng dành cho Đức Phật, những chỗ ngủ dành cho một trăm ngàn vị tỳ khưu, những nhà vệ sinh, những cốc liêu, những cái hang động nhỏ và những cái láng, một số dùng cho ban ngày và một số dùng cho ban đêm, hàng rào quanh tịnh xá có cổng ra vào. Khi mọi thứ đã được hoàn tất, hoàng tử sai sứ giả đi đến đức vua để hộ tống Đức Phật khởi hành lên đường.

Vua Ānanda cúng dường vật thực đến Đức Phật và một trăm ngàn vị tỳ khưu. Rồi vị ấy bạch với Đức Phật: “Thưa Thế Tôn, người

em của Thế Tôn đã chuẩn bị tất cả sự cần thiết để đón tiếp Ngài, và tha thiết mong mỏi Ngài đến.” Đức Thế Tôn thực hiện chuyến đi có một trăm ngàn vị tỳ khưu tháp tùng, nghỉ đêm ở những nhà nghỉ được dựng lên dọc theo con đường ở những chặn dừng cách nhau một do tuần. Con đường dài một trăm hai mươi do tuần rất tiện nghi.

Hoàng tử Sumana đón tiếp Đức Phật từ khoảng xa một do tuần dọc theo con đường cách chỗ ngụ của vị ấy. Khi làm lễ cung nghinh với những bông hoa và những vật thơm, vị ấy đưa Đức Phật và chúng Tăng đi vào tịnh xá. Rồi vị ấy cúng dường tịnh xá đến Đức Phật, và nói lên câu kệ sau đây:

Satasahassena me kītaṃ, satasahassena māpitaṃ

Sobhaṇam nāma uyyānaṃ, paṭiggaṇha Mahāmuni.

Ôi bậc Đại hiền của chư Thánh! Con, Sumana, đã mua khu vườn Sobhaṇa với giá một trăm ngàn, và xây dựng tịnh xá này với giá một trăm ngàn. Cầu xin bậc Đại hiền thánh thọ lãnh vật thí tịnh xá này của con.

Hoàng tử Sumana cúng dường tịnh xá vào ngày đầu mùa an cư. Sau khi sự cúng dường đã hoàn tất, vị ấy triệu tập gia đình và tùy tùng lại rồi nói rằng: “ Đức Thế Tôn đã đến từ một quãng đường xa một trăm hai mươi do tuần. Chư Phật xem trọng Giáo pháp chứ không phải vật chất cúng dường. Vấn đề là như vậy, ta sẽ ở lại đây trong ba tháng tại tịnh xá này của Đức Phật, chỉ sử dụng hai bộ y phục và thọ trì Thập giới. Các ngươi sẽ hầu hạ Đức Phật và một trăm ngàn vị tỳ khưu trong ba tháng như đã làm ngày hôm nay.” Và như vậy, vị ấy trải qua mùa an cư trong tịnh xá.

Hoàng tử Sumana bảo đảm rằng Đức Phật ngụ không xa vị thị giả, đại đức Sumana, người chăm lo tất cả mọi nhu cầu của Ngài. Vị ấy bắt chước vị tỳ khưu kia và quyết tâm trở thành vị tỳ khưu đệ tử thân thiết của một vị Phật tương lai. Thế nên, khoảng một tuần trước khi kết thúc thời gian an cư, vị ấy cúng dường đại thí đến Đức Phật và chúng Tăng. Vào ngày thứ bảy của lễ cúng dường đại thí, vị ấy đặt một bộ tam y trước mỗi vị tỳ khưu gồm một trăm ngàn vị và đảnh lễ

Đức Phật: “ Tất cả những việc phước của con mà bắt đầu tại kinh đô Haṃsāvatī tại những khu vực tạm của con, không phải để có được những vinh quang trong tương lai thuộc thế tục, ví như làm Sakka hoặc Deva hoặc Māra. Ước nguyện của con đối với những việc phước này là trở thành thị giả của một vị Phật trong thời kỳ tương lai.”

Đức Phật xem xét vấn đề, khi thấy rằng ước nguyện của vị hoàng tử sẽ được thành tựu, bèn nói lời tiên tri và ra đi. Khi nghe lời tiên tri của Đức Phật Padumuttara, hoàng tử rất tin tưởng vào sự chắc chắn trong lời công bố của Đức Phật tựa như vị sẽ trở thành thị giả của Đức Phật Gotama vào ngày mai, đang mang y và bát của Đức Phật.

Những thiện nghiệp trong thời kỳ Chuyển tiếp

Hoàng tử Sumana trải qua một trăm ngàn năm làm các việc phước trong thời của Đức Phật Padumuttara. Khi mạng chung vị ấy tái sanh vào cõi chư thiên. Trong thời Đức Phật Kassapa, vị ấy cúng dường chiếc áo khoác đến một tỳ khưu đang đi khất thực để dùng làm cái đế lót bát.

Khi mạng chung trong kiếp sống ấy, vị ấy được tái sanh vào cõi chư thiên. Sau kiếp sống chư thiên, vị ấy tái sanh vào cõi người và làm vua nước Bārāṇasi. Khi đứng ở tầng trên của cung điện, vị ấy trông thấy tám vị Phật Độc giác đang đi trên hư không từ ngọn núi Gandhamādana, vị ấy thỉnh các ngài đến hoàng cung và cúng dường vật thực. Vị ấy cũng xây dựng tám chỗ ngụ trong những khu vườn của hoàng gia để làm nơi cư trú cho tám vị Phật Độc giác. Hơn nữa, vị ấy cũng làm tám chỗ ngồi có điểm tô châu báu dành cho các ngài sử dụng trong dịp viếng thăm hoàng cung, lại thêm tám cái đế bằng hồng ngọc để đặt những cái bát của các ngài. Vị ấy hầu hạ tám vị Phật Độc giác trong mười ngàn năm. Đây là những việc phước nổi bậc trong thời kỳ xen giữa một trăm ngàn đại kiếp; vị ấy cũng thực hiện nhiều thiện nghiệp nhiều trong thời gian ấy.

Đời sống Sa môn trong kiếp chót

Sau khi thực hành nhiều việc phước và nhờ đó gieo tạo những hạt giống công đức trong thời kỳ xen giữa của một trăm ngàn đại kiếp, trưởng lão Ānanda tương lai đã tái sanh vào cõi Tusita Deva cùng với Đức Phật đương lai Gotama. Sau khi mạng chung từ kiếp sống ấy, vị ấy tái sanh làm con trai của hoàng tử Amitodāna trong kinh thành Kapilavatthu, tên là Ānanda – nghĩa là niềm vui sướng mà vị ấy tạo ra do sanh vào gia đình. Trong cuộc viếng thăm đầu tiên của Đức Phật Gotama đến Kapilavatthu, một số hoàng tử Sakyan do hoàng tử Bhaddiya dẫn đầu đã từ bỏ thế gian và trở thành những vị tỳ khưu đệ tử của Đức Phật khi Ngài đang lưu trú trong khu rừng Anupiya gần thị trấn có cùng tên ấy. (Hãy xem Đại Phật Sử cuốn III).

Ānanda an trú trong quả thánh Nhập Lưu – Sotāpatti-phala

Không bao lâu, sau khi đã trở thành tỳ khưu, đại đức Ānanda lắng nghe bài pháp của đại đức Mantāṇiputta Puṇṇa và chứng đắc quả thánh Nhập lưu. Phần này được ghi lại trong bộ Saṃyutta Nikāya, Khandhavagga Samyutta, 4. Thera Vagga, 1. Ānanda Sutta. Nội dung chính của bài kinh ấy như sau:

Thời gian Đức Phật đang lưu trú ở tịnh xá Jetavana, kinh thành Sāvatthi, đại đức Ānanda nói với các vị tỳ khưu: “ Thưa các tôn giả,” và các vị tỳ khưu đáp lại, “ Hiền giả.” Đại đức Ānanda nói rằng:

“ Thưa các bạn, đại đức Mantāṇiputta Puṇṇa đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều khi chúng ta mới xuất gia tỳ khưu. Vị ấy khuyên chúng ta bằng giáo giới này: ‘ Này hiền giả Ānanda, có một nguyên nhân mà ngã mạn ‘tôi là’ khởi sanh qua ái dục và tà kiến (như vậy nhóm ba papañca gồm ái dục, ngã mạn và tà kiến tạo ra vòng luân hồi bất tận). Nó không sanh lên nếu không có một nguyên nhân. Do bởi nhân gì mà ngã mạn ‘Tôi là’ sanh khởi? Do bởi sắc (rūpa), mà ngã mạn ‘Tôi là’, cùng với những pháp câu hữu của nó là ái dục và tà kiến sanh khởi; không có nguyên nhân như vậy thì ngã mạn ‘Tôi là’ không sanh khởi. Do bởi thọ (vedanā)… tưởng (saññā)… hành (saṅkhāra)… Do bởi

thức (viññāṇa), mà ngã mạn ‘Tôi là’, cùng với những pháp câu hữu của nó là ái dục và tà kiến sanh khởi, không có nguyên nhân như vậy thì ngã mạn ‘Tôi là’ không sanh khởi.

“ Này hiền giả Ānanda, tôi sẽ cho một ví dụ. Nếu một phụ nữ hay một người nam trẻ, thích tự trang điểm mình, nhìn hình ảnh của cô ta hay khuôn mặt của anh ta trong một tấm gương sáng và sạch sẽ hay trong một bát nước trong, thì cô ta hay anh ta sẽ thấy nó dựa vào một nguyên nhân (tức là hình ảnh của cô ta hay anh ta và bề mặt của tấm gương hay nước phản chiếu) và không có gì khác. Này hiền giả Ānanda, cũng vậy, do bởi sắc, mà ngã mạn (mānā) ‘Tôi là’, cùng với những pháp câu hữu của nó là ái dục và tà kiến sanh khởi; không có nguyên nhân như vậy, thì nó không sanh khởi. Do bởi thọ (vedanā)… tưởng (saññā)… hành (saṅkhāra)…Do bởi thức (viññāṇa), mà ngã mạn ‘Tôi là’, cùng với những pháp câu hữu của nó là ái dục và tà kiến sanh khởi, không có nguyên nhân như vậy thì nó không sanh khởi.

“ Này hiền giả Ānanda, hiền giả nghĩ gì về điều tôi sắp hỏi hiền giả: ‘Sắc là thường hay vô thường?” “ Vô thường, thưa tôn giả.”

(Cuộc đàm đạo tiếp tục như trong bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta)… Không còn gì thêm nữa để làm cho sự chứng ngộ Đạo (magga).”

“ Thưa các hiền hữu, đại đức Mantāṇiputta Puṇṇa đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều khi chúng ta mới xuất gia tỳ khưu. Vị ấy khuyên chúng ta bằng giáo giới trên. Do nghe sự giảng giải của đại đức Mantāṇiputta Puṇṇa, tôi đã đạt được trí tuệ về Tứ Thánh đế (tức là chứng đắc quả thánh Nhập lưu – sotapatti-phala).

Liên quan đến bài pháp kể trên, điều rõ ràng là đại đức Ānanda trở thành bậc thánh Nhập lưu (sotāpānna) sau khi nghe bài pháp của đại đức Mantāṇiputta Puṇṇa qua ví dụ cái gương.

Sự chỉ định Ānanda làm thị giả của Đức Phật

Trong hai mươi mốt năm đầu của Đức Phật, gọi là Sơ giác thời, Đức Phật không có một thị giả thường trực nào. Trong thời gian ấy,

một số tỳ khưu làm thị giả của Đức Phật, mang bát và y cho Ngài ; những vị tỳ khưu ấy là: đại đức Nāgasamāla, Nāgita, Upavāna, Sunakkhatta (trước kia là một hoàng tử Licchavi), Cunda (em trai của đại đức Sāriputta), Sāgata, Rādha, Meghiya.

Vào một dịp nọ, Đức Phật được hầu hạ bởi đại đức Nāgasamāla, đang đi trên một quãng đường dài thì đến chỗ rẽ hai ngã. Đại đức Nāgasamāla khi rời khỏi con đường chính, nói với Đức Phật: “ Bạch Thế Tôn, con sẽ đi con đường này (từ hai ngã đường).” Đức Phật nói rằng: “ Này tỳ khưu, hãy đến đây, chúng ta hãy đi con đường khác.” Khi ấy đại đức Nāgasamāla nói một cách thiếu nhẫn nại: “ Bạch Thế Tôn, hãy cầm lấy những thứ này, con sẽ đi con đường khác” bèn xoay người đi rồi đặt y bát của Đức Phật xuống đất. Nhân đó, Đức Phật nói với vị ấy rằng: “ Này tỳ khưu, hãy đưa chúng cho Như Lai,” và Ngài phải tự thân mang chúng, và rồi đi theo con đường mà Ngài đã chọn trong khi đó đại đức Nāgasamāla đi con đường khác, rời bỏ Đức Phật. Khi đại đức Nāgasamāla đi được một đoạn ngắn thì vị ấy bị một băng cướp tước lột y và bát và đánh vào đầu của vị ấy. Khi máu trên đầu chảy xuống, vị ấy nhớ đến Đức Phật như là chỗ nương tựa duy nhất và trở lại với Ngài. Đức Phật hỏi: “ Này tỳ khưu, điều gì đã xảy đến cho con?” Đại đức Nāgasamāla bèn kể lại câu chuyện và Ngài nói rằng: “ Này tỳ khưu, hãy can đảm lên. Do thấy trước mối nguy hiểm này, Như Lai đã bảo con đừng đi con đường ấy.” (Đây là một trong những biến cố dẫn đến sự chỉ định một thị giả thường trực).

Một dịp khác (trong mùa an cư thứ mười ba, Đức Phật đang ngụ trên núi, tại đồi Cālika), sau khi đi khất thực trong ngôi làng Jantu, Ngài cùng với người thị giả tạm thời là trưởng lão Meghiya, đang đi trên bờ sông Timikāḷā, lúc đó đại đức Meghiya nhìn thấy khu vườn xoài, bạch với Đức Phật rằng: “ Bạch Thế Tôn, xin hãy cầm lấy bát và đại y của Ngài. Con muốn hành thiền trong vườn xoài ấy.” Đức Phật đã can ngăn vị ấy đến ba lần đừng làm như vậy, nhưng vị ấy không nghe. Sau đó, ngay khi trưởng lão Meghiya ngồi trên một tảng đá để bắt đầu hành thiền thì ba bất thiện tầm áp chế vị ấy. Vị ấy trở lại với Đức Phật và trình bạch những gì đã khởi sanh trong tâm khi vị ấy

cố gắng hành thiền. Đức Phật an ủi nói rằng: “ Vì thấy điều sắp xảy đến cho con, Như Lai đã khuyên con đừng lai vãng chỗ ấy.” (Muốn biết chi tiết về biến cố này, hãy xem Đại Phật Sử, cuốn IV.) (Đây là một ví dụ khác dẫn đến sự chỉ định một thị giả thường trực).

Do bởi những điều bất cập như vậy nên Đức Phật, trong một dịp, khi đang ngồi trên Phật tọa tại hội trường, trong khu vực thuộc phòng riêng của Đức Phật ở tịnh xá Jetavana, đã nói với các tỳ khưu rằng:

“ Này các tỳ khưu, Như Lai giờ đây đã già rồi (khi ấy Ngài đã trên năm mươi). Một số tỳ khưu hầu hạ Như Lai thường không đi theo con đường mà Như Lai đã chọn (ám chỉ đại đức Meghiya); một số tỳ khưu lại còn nghĩ đến việc bỏ y và bát của Như Lai trên đất (ám chỉ đại đức Nāgasamāla). Bây giờ hãy chọn một tỳ khưu sẽ theo hầu Như Lai thường xuyên.”

Sau khi nghe những lời ấy, nhiều xúc cảm trỗi dậy trong các vị tỳ khưu.

Rồi trưởng lão Sāriputta đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ Đức Phật rồi bạch rằng, “ Bạch Thế Tôn, trong một A- tăng- kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, con đã thực hành viên mãn các pháp Ba- la- mật đơn giản chỉ để trở thành đệ tử của Ngài. Một người có trí tuệ như con phải được xem là người thích hợp để làm thị giả thường trực cho Thế Tôn. Xin cho phép con được hầu hạ Ngài.” Đức Phật nói rằng, “ Điều ấy không thích hợp, này Sāriputta, bất cứ nơi đâu con có mặt thì nơi đó có Chánh pháp. Vì con thuyết giảng Chánh pháp giống như Như Lai thuyết giảng. Do đó con không có bổn phận phải hầu hạ Như Lai.” Sau khi Đức Phật đã tán dương những ân đức của trưởng lão Sāriputta và lập lại đề nghị một thị giả hầu hạ cho Ngài. Trưởng lão Moggallāna đứng ra xin được hầu hạ Thế Tôn nhưng cũng bị từ chối. Rồi tám mươi vị đại đệ tử của Đức Phật cũng tình nguyện làm thị giả, tất cả đều tình nguyện được làm thị giả.

Tám đặc ân của Ānanda

Đại đức Ānandā im lặng, không xin làm thị giả. Khi ấy các tỳ khưu thúc dục vị ấy, “ Này hiền giả Ānanda, mỗi thành viên trong chúng Tăng đều tình nguyện làm thị giả cho Đức Thế Tôn. Hiền giả cũng nên tự mình đề nghị.” Đại đức Ānanda nói với họ rằng: “ Thưa các tôn giả, một địa vị (liên quan đến Đức Thế Tôn) không phải là điều gì được cầu xin. Đức Thế Tôn có lưu ý đến tôi không? Nếu Đức Thế Tôn lưu ý thì Ngài sẽ nói rằng, ‘Này Ānanda, hãy làm thị giả của Như Lai.’”

Rồi Đức Phật nói với các vị tỳ khưu: “ Này các tỳ khưu, Ānanda không cần lời khuyên của bất cứ ai để hầu hạ Như Lai. Vị ấy sẽ tự ý làm điều ấy.” Nhân đó các tỳ khưu mới nài xin đại đức Ānanda, nói rằng, “ Này hiền giả Ānanda, hãy đứng dậy, và hãy xung phong làm thị giả thường trực.” Khi ấy đại đức Ānanda đứng dậy khỏi chỗ ngồi và xin Đức Phật ban cho tám đặc ân: “ Bạch Thế Tôn, nếu Ngài đồng ý với bốn điều kiện cần tránh thì con sẽ làm thị giả thường trực cho Thế Tôn:

  1. Thế Tôn sẽ không cho con những y phục tốt mà Thế Tôn đã thọ

    lãnh.

  2. Thế Tôn sẽ không cho con vật thực ngon.

  3. Thế Tôn sẽ không để con ở chung chỗ ngụ dành cho Ngài.

  4. Thế Tôn sẽ không dẫn con đến nhà của những thiện tín hộ độ khi họ thỉnh Ngài.”

    Đức Phật nói với đại đức Ānanda, “ Này Ānanda, con thấy những điều bất lợi nào trong bốn điều này?” và đại đức Ānanda giải thích như vầy, “ Bạch Thế Tôn, nếu con được cho bốn món vật dụng mà Ngài thọ dụng, thời chắc chắn sẽ khởi sanh sự phê bình rằng Ānanda có đặc lợi rằng về

    1. thọ lãnh những y phục tốt của Đức Thế Tôn đã thọ lãnh,

    2. thọ lãnh vật thực tốt của Đức Thế Tôn đã thọ lãnh,

    3. được ở chung Hương phòng của Đức Phật, và

    4. được vinh dự đi theo Đức Phật đến nhà của các thí chủ. Con thấy những lời phê phán như vậy là những điều bất lợi.”

này:

Hơn nữa, đại đức Ānanda cũng xin Đức Phật thêm bốn đặc ân

“ Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn ban cho con bốn đặc ân này, thì

con sẽ trở thành thị giả thường trực của Ngài

  1. Xin Thế Tôn đồng ý đi đến những chỗ mà con thỉnh mời,

  2. Xin Thế Tôn tiếp kiến những vị khách phương xa ngay khi họ đến,

  3. Xin Thế Tôn giải thích cho con bất cứ những điểm giáo pháp nào mà đối với con, cần được làm sáng tỏ,

  4. Xin Thế Tôn nói lại cho con tất cả những bài pháp mà Ngài đã thuyết mà không có sự hiện diện của con.

    Đức Phật nói với đại đức Ānanda: “Này Ānanda, con thấy những lợi ích nào trong bốn đặc ân này?” Đại đức Ānanda giải thích như vầy: “ Bạch Thế Tôn, trong giáo pháp này mà có tám đặc tính kỳ diệu,

    1. Một số thí chủ có lòng tịnh tín sâu sắc đối với Đức Phật, họ không thể trực tiếp đến gặp Thế Tôn để thỉnh Ngài về nhà của họ. Họ sẽ yêu cầu con, là thị giả của Đức Phật, và con được phép thay mặt Thế Tôn nhận lời thỉnh mời của họ;

    2. Những thiện tín mà từ nơi xa đến đảnh lễ Đức Phật thì cần được cho phép yết kiến mà không phải đợi lâu;

    3. Bất cứ khi nào con chưa thỏa mãn về một câu pháp nào đó của Thế Tôn thì con, là thị giả của Ngài, cần được phép hỏi Thế Tôn để những điểm chưa rõ ràng ấy của Giáo pháp để được giải thích rõ hơn. Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn (i) không đáp ứng yêu cầu của con là chấp nhận những lời mời của các thí chủ qua trung gian của con; hoặc (ii) không đáp ứng yêu cầu của con là đại diện cho những người chiêm bái từ xa đến để tiếp kiến họ; hoặc (iii) không đáp ứng yêu cầu của con là cho phép được thỉnh cầu giải thích rõ ràng những vấn đề của giáo pháp – thời mọi người sẽ nói rằng, ‘ Việc làm thị giả của Ānanda có ý nghĩa gì nếu vị ấy không có những đặc ân này?’

      Đó là những lý do khiến con xin ba đặc ân đầu tiên.

    4. Về đặc ân thứ tư: Nếu những vị tỳ khưu khác mà hỏi con rằng, ‘ Này hiền giả Ānanda, câu kệ này xảy ra ở đâu, hay bài pháp

này hay chuyện Bổn sanh này được Đức Thế Tôn giảng ở đâu?’ – và nếu con không thể trả lời được thắc mắc của họ, thời họ sẽ nói rằng, ‘ Này hiền giả, hiền giả đã rất gắn bó với Đức Thế Tôn như cái bóng của Ngài, thế mà hiền giả không biết ngay cả bấy nhiêu đấy.’ Bạch Thế Tôn, để tránh những lời phê bình như vậy, nên con xin Ngài đặc ân thứ tư này, tức là kể lại cho con tất cả những bài Pháp mà Ngài đã thuyết không có sự hiện diện của con.

“ Bạch Thế Tôn, đây là những lợi ích mà con nhận thấy trong bốn đặc ân.” Đức Phật ban cho đại đức Ānanda tất cả tám đặc ân ấy bao gồm bốn điều kiện tránh và bốn điều ưu tiên.

Ānanda chăm sóc Đức Phật

Như vậy, sau khi được Đức Phật ban cho tám đặc ân này, đại đức Ānanda trở thành thị giả thường trực cho Ngài. Do đã nhận ra ước nguyện và để đạt được ước nguyện này vị ấy đã phải thực hành các pháp Ba-la-mật trên một trăm ngàn đại kiếp.

Công việc hằng ngày của vị ấy gồm có lấy nước nóng và nước lạnh cho Đức Phật, làm sẵn ba cỡ của cây chà răng để dùng thích hợp với thời điểm, xoa bóp tay chân của Đức Phật, cọ lưng khi Ngài tắm, quét dọn Hương phòng của Ngài, v.v… Hơn nữa, vị ấy luôn luôn ở bên cạnh Đức Phật, luôn chăm lo các nhu cầu của Ngài và lên lịch trình sinh hoạt phù hợp để Đức Phật thực hiện.

Vị ấy không chỉ giữ gìn sự chăm lo đầy quý mến về những sinh họat của Đức Phật vào ban ngày; mà vào ban đêm cũng vậy, vị ấy cũng thức bằng cách cầm đèn đi quanh khu vực Hương phòng của Đức Phật. Mỗi đêm, vị ấy đi như vậy chín vòng, ý định của vị ấy là sẵn sàng bất cứ lúc nào Đức Phật gọi. Đây là những lý do mà vị ấy được chỉ định là tỳ khưu Tối thắng.

(c) Sự hoạch đắc danh hiệu Etadagga

Một dịp nọ, khi Đức Phật đang ngụ ở tịnh xá Jetavana, Ngài tán dương những đức tánh của trưởng lão Ānanda, Người giữ kho Chánh pháp, về nhiều mặt và rồi công bố:

  1. Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ bahusutānaṃ.

    Này các tỳ khưu, trong số các tỳ khưu đệ tử của Như Lai, người nghe nhiều học rộng (thì Ānanda là Tối thắng).

  2. Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ satimantānaṃ.

    Này các tỳ khưu, trong số các tỳ khưu đệ tử của Như Lai, người có trí nhớ trong việc ghi nhớ những bài Pháp của Như Lai (thì Ānanda là Tối thắng).

  3. Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ gatimantānaṃ.

    “Này các tỳ khưu, trong số các tỳ khưu đệ tử của Như Lai, người lĩnh hội được những lời dạy của Như Lai (thì Ānanda là Tối thắng).

  4. Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ dhitimantānaṃ.

    Này các tỳ khưu, trong số các tỳ khưu đệ tử của Như Lai, người siêng năng trong việc học, ghi nhớ và tụng lại những lời dạy của Như lai cũng như hầu hạ Như Lai (thì Ānanda là Tối thắng).

  5. Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ upaṭṭhākānaṃ yadidaṃ Ānando.

    Này các tỳ khưu, trong số các tỳ khưu đệ tử của Như Lai, người tự thân hầu hạ Như Lai thì Ānanda là Tối thắng.

    Như vậy trong Giáo pháp của Đức Phật, trưởng lão Ānanda được Đức Phật vinh danh là tỳ khưu đệ tử Tối thắng trong năm lãnh vực, đó là đa văn, có Chánh niệm trong việc ghi nhớ lời Pháp, liễu ngộ Giáo pháp, siêng năng trong việc gìn giữ Giáo pháp và trong việc chăm sóc đạo sư, bằng sự tự thân phục vụ Ngài.

    Sự chứng đắc Đạo Quả A-la-hán

    Vì sự chứng đắc đạo quả A-la-hán dành cho đại đức Ānanda, cuộc Kiết tập Tam tạng lần thứ nhất diễn ra. Chúng tôi sẽ kể lại biến cố này liên quan đến Chú giải của phẩm Sīlakkhandha vagga (Dīgha Nikāya) về chủ đề này.

    Sau khi truyền bá Giáo pháp đem lại sự giải thoát cho những người hữu duyên, bắt đầu bằng bài pháp đầu tiên, kinh Chuyển pháp luân, đến bài pháp cuối cùng cho đạo sĩ Subhadda, Đức Phật đã nhập Niết bàn giữa hai cây song thọ Sāla tại lạc viên của bộ tộc Malla, gần Kusinagara vào năm 148 thuộc Đại kỷ nguyên. Sự tịch diệt của Đức Phât, không để lại dư báo về năm uẩn, xảy ra vào ngày rằm tháng Tư âm lịch, vào lúc sáng sớm. Các hoàng tử Malla tổ chức lễ trà tỳ trong bảy ngày với những bông hoa và các vật thơm được đặt quanh nhục thân của Đức Phật để tôn vinh Ngài. Tuần lễ ấy được gọi là ‘Tuần lễ hội Trà tỳ’.

    Sau các lễ hội này, nhục thân của Đức Phật được đặt trên giàn hỏa nhưng nó không cháy dù các vị hoàng tử Malla đã hết sức cố gắng. Chỉ vào ngày thứ bảy, sau khi trưởng lão Mahā Kassapa về đến và đảnh lễ thì nhục thân của Đức Phật mới tự bốc cháy, vì Đức Phât đã chú nguyện trước rồi. Tuần thứ hai ấy được gọi là ‘ Tuần lễ của Giàn hỏa Trà tỳ.’

    Sau đó Xá lợi của Đức Phật được những người Malla tôn kính cúng dường trong bảy ngày bằng những lễ hội chưa từng thấy, bằng sự sắp xếp hàng hàng lớp lớp những người cầm thương cưỡi ngựa để bảo vệ những khu vực lễ hội. Tuần thứ ba ấy được gọi là ‘ Tuần lễ cúng dường Xá-lợi’.

    Sau ba tuần lễ đã trôi qua như vậy, vào ngày mồng năm của tháng Jeṭṭha (từ tháng 5 đến tháng 6 dương lịch) có diễn ra một cuộc phân chia Xá lợi (do Vassakāra, vị giáo sư Bà-la-môn vĩ đại làm chủ tọa). Vào ngày đáng ghi nhớ ấy, có môt cuộc họp gồm bảy trăm ngàn vị tỳ khưu (tại Kusinagara). Tại cuộc họp, đại đức Mahā Kassapa đã nhớ lại những lời nhận xét hỗn hào của Subhadda, một tỳ khưu già

    xuất gia sau khi có gia đình, trong chuyến đi từ Pāvā đến Kusinagara, vào ngày thứ bảy sau khi Đức Phật nhập Niết bàn. Vị tỳ khưu già nói với các vị khác đang than khóc về sự viên tịch của Đức Phật, “ Thưa các tôn giả, xin đừng ta thán, đừng chảy nước mắt một cách không cần thiết. Vì chỉ giờ đây chúng ta mới được tự do, thoát khỏi sự độc đoán của Tỳ khưu Gotama, vị ấy thường nói với rằng: “ Đúng, điều này thích hợp cho một tỳ khưu’, ‘Không, điều này không thích hợp cho một tỳ khưu.’ Bây giờ chúng ta được tự do làm điều mà chúng ta thích làm, và bỏ qua điều mà chúng ta không thích làm.”

    Hơn nữa, đại đức Mahā Kassapa thấy rằng Giáo pháp của Đức Phật gồm có Giáo pháp ba thiện sẽ dễ dàng suy sụp sau khi người tạo lập nó qua đời, vì các vị tỳ khưu bất thiện thường không tôn vinh những lời dạy của Đức Phật và khi Ngài không còn nữa, và số lượng tỳ khưu ấy có thể tăng lên. “Lành thay nếu tỳ khưu chúng ta hội họp lại rồi cùng nhau tụng lại tất cả Pháp và Luật mà Đức Phật để lại. Bằng cách này Giáo pháp ba thiện sẽ được tồn tại lâu dài.” Đại đức Mahā Kassapa đã suy xét như vậy.

    Rồi trưởng lão cũng nhớ lại sự công nhận đặc biệt của Đức Phật đối với trưởng lão.

    “ Đức Thế Tôn đã trao đổi chiếc đại y của Ngài với đại y của ta. Ngài đã công bố với các vị tỳ khưu rằng: “ Này các tỳ khưu, việc trú trong sơ thiền, thì Kassapa ngang hàng với Như Lai, v.v…” đó là sự tán dương năng lực các thiền chứng của ta liên quan đến các tầng thiền cao hơn, bao gồm chín thiền chứng đòi hỏi sự nhập thiền liên tiếp trải qua các tầng bậc, cũng như năm phép thần thông. Lại nữa, Đức Thế Tôn đã trú giữa hư không, và khi vẫy bàn tay, đã công bố rằng trong vấn đề sống viễn ly đối với bốn chúng đệ tử thì Kassapa là vô song,’ và ‘ trong thái độ bình thản thì Kassapa cư xử như mặt trăng’. Những lời tán dương này quả thật là vô song. Ta phải sống theo những ân đức này, không cách nào khác ngoài việc tổ chức một hội Kiết tập Tăng đoàn cho sự tụng đọc Pháp và Luật được trường tồn. “ Như một vị vua chỉ định cho đứa con trai đầu làm người thừa

    kế hợp pháp, ban cho tất cả đồ dùng của vua và quyền hành cho đứa

    con trai với ý định duy trì vương quyền của vị ấy, cũng thế Đức Thế Tôn quả thực đã tán dương ta rất nhiều, với những cách phi thường như thế vì Ngài biết rằng ta có thể duy trì giáo pháp của Ngài.”

    Sau khi đã nghiền ngẫm sâu sắc như vậy, trưởng lão Mahā Kassapa kể lại cho hội chúng tỳ khưu nghe những lời báng bổ của tỳ khưu Subhadda, vị tỳ khưu già (đã giải thích ở trên), và đưa ra lời đề nghị này:

    “ Thưa các hiền hữu, trước khi ác pháp phát triển và trở thành chướng ngại cho Chánh pháp, trước khi tình trạng phá giới phát triển và trở thành chướng ngại của giới Luật, trước khi những người ủng hộ phi pháp mạnh lên, trước khi những người gìn giữ Chánh pháp trở nên suy yếu, trước khi những người ủng hộ ác pháp mạnh lên, trước khi những người gìn giữ giới Luật trở nên suy yếu, chúng ta hãy cùng nhau tụng đọc Pháp và Luật và bảo tồn chúng.”

    Sau khi nghe những lời yêu cầu đầy nhiệt huyết của trưởng lão, hội chúng tỳ khưu nói rằng: “ Thưa trưởng lão Kassapa, cầu xin trưởng lão chọn ra các vị tỳ khưu để thực hiện việc tụng đọc Pháp và Luật.” Khi ấy trưởng lão chọn ra bốn trăm chín mươi chín vị A-la-hán thuộc lòng Tam tạng, và hầu hết các ngài đều có Tứ vô ngại giải tuệ, Tam minh, và sáu Thắng trí, đã được Đức Thế tôn chỉ định là tỳ khưu Tối thắng.

    ( Về vấn đề này, sự tuyển chọn 499 vị tỳ khưu cho thấy rằng có một ghế được trưởng lão Mahā Kassapa dành sẵn cho Ānanda. Lý do là vào lúc ấy trưởng lão Ānanda chưa chứng đắc đạo quả A-la-hán, và vẫn còn tu tập để trở thành bậc A-la-hán. Không có Ānanda thì không thể tổ chức cuộc kết tập vì vị ấy đã nghe tất cả những lời dạy của Đức Phật bao gồm năm bộ Nikaya, Chín Aṅga hay Phần, và số lượng thuật ngữ Phật pháp tất cả tám mươi bốn ngàn.

    Tại sao Ānanda được trưởng lão Mahā Kassapa đặt vào danh sách những người tụng đọc? Lý do là trưởng lão Mahā Kassapa muốn tránh sự phê bình rằng vị ấy thiên vị với trưởng lão Ānanda bởi vì không có vị A-la-hán nào khác có Tứ vô ngại giải tuệ như trưởng lão Ānanda trong khi ngài vẫn còn là một bậc hữu học.

    Sự phê bình này có thể xảy ra, khi xét đến sự kiện rằng trưởng lão Mahā Kassapa và Ānanda rất thân thiết với nhau. Trưởng lão Mahā Kassapa thường gọi trưởng lão Ānanda bằng những tên gọi thân thiết như ‘chàng trai trẻ này’ ngay cả khi trưởng lão Ānanda đã thọ tám mươi tuổi đã bạc tóc.

    ( Hãy xem Kassapa Saṃyutta, Cīvara Sutta, Nidāna Vagga). Hơn nữa, đại đức Ānanda là một vị hoàng tử dòng Thích ca và là anh em chú bác của Đức Phật. Vì lý do đó nên trưởng lão Mahā Kassapa, dù biết rõ Ānanda tuyệt đối cần thiết trong cuộc kiết tập, nhưng vẫn đợi sự đồng ý chung của Tăng hội trong việc tuyển chọn trưởng lão Ānandā).

    Khi trưởng lão Mahā Kassapa thông báo với chúng Tăng về việc vị ấy đã tuyển chọn 499 vị La hán thì chúng Tăng đồng loạt đề nghị trưởng lão Ānanda phải được tuyển chọn vào hội nghị Kiết tập cho dù vị ấy vẫn còn là một bậc hữu học. Họ nói rằng: “ Thưa trưởng lão Mahā Kassapa, dù trưởng lão Ānanda vẫn còn là bậc hữu học, nhưng vị ấy không phải là người có sự phán đoán sai lạc một trong bốn pháp bất chánh. Hơn nữa, vị ấy là vị tỳ khưu có pháp học quãng đại nhất được Đức Phật truyền đạt cả về Pháp lẫn Luật.” Khi ấy trưởng lão Mahā Kassapa đưa Ānanda vào danh sách những vị tụng đọc Tam tạng. Như vậy có năm trăm vị được tuyển chọn tụng đọc với sự chấp thuận của chúng Tăng.

    Rồi chúng Tăng xét đến nơi Kiết tập. Các ngài chọn Rājagaha bởi vì đây là một kinh đô lớn, đủ lớn để cung cấp vật thực hằng ngày cho hội chúng tỳ khưu đông đảo và có nhiều tịnh xá lớn để các vị có thể trú ngụ. Các ngài cũng nghĩ đến vấn đề cần thiết là cấm tất cả các tỳ khưu khác ở bên ngoài hội nghị Kiết tập không được nhập hạ trong kinh thành Rājagaha, nơi hội đồng Kiết tập sẽ ngụ trong suốt thời gian ấy. (Lý do ngăn cấm các vị tỳ khưu bên ngoài là vì công việc của hội đồng Kiết tập tiến hành hằng ngày trong một số ngày, nếu những tỳ khưu bên ngoài không bị ngăn chặn trú xứ ấy trong mùa an cư, thì những tỳ khưu chống đối có thể can thiệp vào kỳ Kiết tập).

    Trưởng lão Mahā Kassapa, bằng sự đề cử chính thức là một Tăng sự, và được sự tán thành chính thức của chúng Tăng đã thông qua nghị quyết bằng những lời như sau:

    Suṇtātu me āvuso Sangho yadi Saṅghassa pattakallaṃ Saṅgho imāni pañcabhikkhusatāni sammanneyya rājagahe vassaṃ vassantāni dhammañ ca vinayañ ca

    sangā yituṃ na āññehi bhikkhūhi rājagahe vassaṃ vasitabbanti esā ñatti.

    Nội dung chính của đoạn này là: (1) chỉ có năm trăm vị tỳ khưu tụng Pháp và Luật sẽ ngụ ở Rājagaha trong mùa an cư và (2) những vị tỳ khưu khác không được ngụ tại Rājagaha trong thời gian này.

    Tuyên ngôn Tăng sự diễn ra sau khi Đức Phật viên tịch hai mươi mốt ngày. Sau Tuyên ngôn Tăng sự, trưởng lão Mahā Kassapa công bố với tất cả các thành viên của hội đồng như vầy:

    “ Thưa các hiền giả, tôi cho phép các hiền giả bốn mươi ngày để chăm lo các phận sự cá nhân. Sau bốn mươi ngày này sẽ không có lý do nào khác để vắng mặt trong việc tụng đọc, cho dù bịnh hoạn, công việc liên quan đến thầy tế độ, hay cha mẹ hoặc những nhu cầu cần thiết của vị tỳ khưu như bình bát hoặc y phục. Mỗi người trong các hiền giả đều phải sẵn sàng để bắt đầu các nghi thức vào cuối bốn mươi ngày.”

    Sau khi đưa ra những chỉ thị nghiêm ngặt đến chư Tăng, trưởng lão Mahā Kassapa, được tháp tùng bởi năm trăm tỳ khưu đệ tử, đi đến Rājagaha. Những thành viên khác của hội đồng Kiết tập đi đến những nơi khác nhau cùng với đệ tử của họ, để làm mọi người vơi dịu phiền não bằng việc thuyết giảng Chánh pháp. Đại đức Puṇṇa và bảy trăm tỳ khưu đệ tử ở lại Kusinagara để thuyết pháp làm nguôi ngoai các thiện nam tín nữ đang buồn khổ, thương tiếc về sự viên tịch của Đức Phật.

    Trưởng lão Ānanda như thường lệ mang bát và y của Đức Phật, đi đến Sāvatthi cùng với năm trăm tỳ khưu đệ tử. Tùy tùng đệ tử của vị ấy gia tăng hằng ngày. Bất cứ nơi nào vị ấy đi đến các thiện tín đều ta thán và than khóc.

    Khi trưởng lão Ānanda trải qua các chặn đường đến Sāvatthi, tin đồn vị ấy đến lan khắp kinh thành và mọi người đi ra mang theo những bông hoa và vật thơm để đón chào trưởng lão. Họ than khóc, nói rằng: “Trưởng lão Ānanda ơi, trưởng lão thường đi chung với Đức Phật, nhưng giờ đây trưởng lão đã để Đức Phật ở đâu mà đến đây một mình?” Sự ta thán của mọi người khi thấy trưởng lão Ānanda một mình, đầy thương cảm như ngày Đức Phật Niết bàn.

    Trưởng lão Ānanda an ủi họ bằng những bài Pháp về tánh chất vô thường, khổ và vô ngã của các pháp hữu vi. Rồi vị ấy đi đến tịnh xá Jetavana, đảnh lễ trước hương phòng của Đức Phật, mở cửa, khiêng chiếc giường và cái ghế ngồi ra lau chùi chúng, quét dọn quanh Hương phòng, và thu dọn những bông hoa héo. Rồi vị ấy đặt lại chiếc giường, cái ghế và làm những công việc thông lệ tại chỗ ngụ của Đức Phật như những ngày mà Đức Phật còn tại tiền.

    Bất cứ khi nào làm những công việc thường ngày ấy, vị ấy ta thán: “ Ôi Đức Thế Tôn, đây không phải là lúc để Thế Tôn tắm sao?” “ Đây không phải là lúc Ngài thuyết pháp sao!” “Đây không phải là thời gian sách tấn các tỳ khưu sao?” “ Đây không phải là lúc để Thế Tôn nằm nghiêng bên phải với tất cả oai lực của vị Phật (như con sư tử) sao ?” “ Đây không phải là lúc để Thế Tôn rửa mặt sao?” Vị ấy không thể nào cầm được nước mắt trong những công việc thường lệ đã xảy ra hằng giờ trong việc hầu hạ Đức Phật hằng ngày, vì khi biết rõ lợi ích đặc tánh thanh tịnh của Đức Thế Tôn, vị ấy đã có tình thương sâu đậm đối với Đức Phật do lòng tịnh tín cũng như tình cảm. Vị ấy chưa đoạn trừ tất cả các lậu hoặc, vị ấy có trái tim mềm yếu đối với Đức Phật do bởi những hành vi từ ái với nhau đã xảy ra giữa vị ấy và Đức Phật trong hằng triệu kiếp quá khứ.

    Lời khuyên của một vị thần trong rừng cây

    Trong khi tự mình trải qua sự buồn khổ và thương tiếc sâu đậm trước sự viên tịch của Đức Phật, trưởng lão Ānanda cũng trải nhiều thời gian để an ủi Phật tử đến gặp vị ấy mang theo sự sầu muộn vì sự

    viên tịch của Đức Phật. Sau đó khi trưởng lão đang ngụ tại một khu rừng trong vương quốc Kosala, thì vị thọ thần của khu rừng cảm thấy tội nghiệp và để nhắc nhở vị ấy nên kềm chế nỗi sầu bi của mình, vị thọ thần bèn xướng lên cho vị ấy nghe bài kệ sau đây:

    Rukkhamūlagahanaṃ pasakkiya Nibbānaṃ hadayasmiṃ opiya.

    Jhāya Gotama mā pamādo Kiṃ te biḷibiḷikā karissati.

    Hỡi vị trưởng lão của dòng tộc Thích ca, hãy đến nơi vắng vẻ tại cội cây, hãy trú tâm trong Niết bàn, hãy trú trong thiền định và trong ba tướng (vô thường, khổ và vô ngã). Có lợi ích gì trong việc nói chuyện nhảm nhí với những khách viếng của ngài để cố gắng an ủi họ?”

    Lời khuyên ấy đã làm khởi dậy sự kinh cảm (saṃvega) trong người của trưởng lão Ānanda. Từ khi Đức Phật nhập Niết bàn, vị ấy đã đứng và ngồi quá nhiều đến nỗi vị ấy cảm thấy khó ở, và để làm nguôi ngoai vị ấy đã dùng sữa để chế ra một loại thuốc nhuận tràng vào ngày hôm sau, và không đi ra khỏi tịnh xá.

    Vào ngày hôm ấy Subha, con trai của vị Bà-la-môn Todeyya ( đã qua đời) đến thỉnh trưởng lão Ānanda đến nhận cúng dường vật thực. Trưởng lão nói với chàng thanh niên rằng trưởng lão không thể đến trong ngày hôm ấy được bởi vì đã uống thuốc nhuận trường làm từ sữa, và có thể đến vào ngày hôm sau. Ngày hôm sau, trưởng lão đi đến nhà Subha và Subha đặt một câu hỏi liên quan đến Giáo pháp. Bài Pháp của trưởng lão Ānanda về câu hỏi ấy được ghi lại trong kinh Subha, là bài kinh thứ mười trong phẩm Sīlakkhandha Vagga thuộc Dīgha Nikāya.

    Rồi trưởng lão Ānanda giám sát sự sửa chữa con đường đi đến Jetavana tịnh xá. Khi mùa an cư, đến vị ấy để lại các đệ tử ở tịnh xá rồi đi đến Rājagaha. Những thành viên khác được tuyển chọn cho cuộc kiết tập Tam tạng cũng trở về Rājagaha trong thời gian ấy. Tất cả những thành viên ấy đều làm lễ Uposatha vào ngày rằm tháng sáu âm

    lịch và vào ngày mười sáu họ phát nguyện an cư tại Rājagaha trong ba tháng của mùa mưa.

    Rājagaha có mười tám tịnh xá ở quanh kinh thành lúc bấy giờ. Vì những tịnh xá ấy không có ai ở trong một thời gian, nên những công trình cốc liêu và những khu vực có tường bao quanh ở trong tình trạng bỏ trống và xuống cấp. Trong dịp Đức Phật Niết bàn tất cả các tỳ khưu đều rời khỏi Rājagaha đến Kusinārā, các tịnh xá không được sử dụng và gìn giữ đến nỗi tòa nhà rêu xanh và đầy bụi bậm, đồng thời có những tấm kính bị vỡ và những bức vách bị nứt.

    Các tỳ khưu tổ chức một cuộc họp và quyết định rằng theo như tạng Luật được Đức Phật ban truyền, đặc biệt về chỗ ngụ, những tòa nhà trong tịnh xá và những ngôi chùa và có tường rào bao quanh nên được sửa chữa và bảo tồn trong điều kiện thích hợp. Bởi vậy các ngài quyết định tháng đầu tiên của mùa an cư để sửa chữa và bảo dưỡng các tịnh xá, còn tháng thứ hai để Kiết tập. Các ngài đã tham gia vào công trình sửa chữa để cúng dường những lời dạy của Đức Phật được tìm thấy trong các điều luật và cũng để tránh sự phê phán của các giáo phái bên ngoài giáo pháp của Đức Phật như: “ Các đệ tử của Sa môn Gotama chỉ quan tâm đến các tịnh xá khi đạo sư của họ còn sống, nhưng khi vị ấy chết đi, họ bỏ mặc chúng và để tài sản có giá trị do tứ chúng dâng cúng trở nên hoang phí.”

    Sau khi đi đến quyết định, các vị tỳ khưu đi đến cung điện vua Ajātasattu. Đức vua đảnh lễ và hỏi các ngài đến với mục đích gì. Các ngài nói với đức vua rằng các ngài cần người để trùng tu sửa chữa mười tám tịnh xá. Đức vua đã cung cấp nhân lực cho các ngài để tiến hành sửa chữa dưới sự giám sát của các vị tỳ khưu. Trong tháng đầu tiên công việc được hoàn thành. Khi ấy các vị đi đến vua Ajātasattu và nói rằng, “ Tâu đại vương, công việc sửa chữa tại các tịnh xá đã được hoàn thành. Bây giờ chúng tôi sẽ hội họp lại để đồng loạt tụng đọc Pháp và Luật.” Đức vua nói rằng, “ Thưa chư đại đức, hãy thực hiện phận sự của các ngài tùy duyên. Phải có sự kết hợp của vương quyền và giáo quyền. Hãy cho biết nhu cầu của các ngài và con sẽ lo liệu đáp ứng.” Các vị nói rằng, “ Chúng tôi cần một nhà hội họp dành cho

    Tăng chúng để thực hiện phận sự.” Đức vua thỉnh các ngài chỉ chỗ, và các ngài đã chọn sườn núi của ngọn núi Vebhāra ở đó có cây đại thọ Sattapaṇṇi.

    Một giả ốc to lớn được vua Ajātasattu dâng cúng

    “ Lành thay, thưa chư đại đức,” vua Ajātasattu nói và truyền lịnh xây dựng một giả ốc to lớn dành cho hội đồng Kiết tập, nguy nga lộng lẫy không khác gì cung điện do Visukamma, vị thiên kiến trúc, tạo ra. Nó có những ngăn phòng giúp cho công việc của hội đồng có kết quả tốt đẹp, mỗi ngăn phòng đều có bậc thang và những lối vào, tất cả những bức tường, những cột trụ (những hàng chấn song) được sơn phết xinh đẹp với những mẫu nghệ thuật. Toàn thể giả ốc trông có vẻ rực rỡ hơn cả hoàng cung và sự rực rỡ của nó còn hơn cả lâu đài của chư thiên. Nó trông như một lâu đài tráng lệ thu hút sự chú ý của người nhìn ngắm nó, cả chư thiên lẫn nhân loại, như bờ sông khả ái hấp dẫn tất cả các loại chim. Thực ra nó có ấn tượng của một cảnh vật khả ái bao gồm tất cả những vật khả ái khác gộp lại.

    Hội trường có một cái lọng được cẩn các loại ngọc. Những chùm hoa đủ các cỡ, các hình dạng và màu sắc treo lung linh. Nền nhà được lát đá quí trông như cái thảm khổng lồ bằng hồng ngọc. Bên trên là những tràng hoa đủ màu sắc tạo thành một tấm thảm kỳ diệu như được trang trí ở cung điện của Phạm thiên. Năm trăm chỗ ngồi dành cho năm trăm vị tỳ khưu tụng đọc được làm bằng chất liệu vô giá, nhưng phù hợp cho các vị sử dụng. Một chiếc ghế quí, là cái bệ được nâng cao, dành cho vị trưởng lão có phận sự đặt những câu hỏi, lưng nó dựa vách tường hướng nam, nhìn về hướng bắc. Ở giữa, có một cái bục cao dành cho vị trưởng lão nhận phận sự trả lời những câu hỏi, nhìn về hướng Đông, thích hợp để sử dụng. Trên chỗ ngồi ấy có đặt một cái quạt tròn làm bằng ngà. Sau khi trang trí chi tiết tất cả mọi thứ, đức vua thông báo với chư Tăng là mọi thứ đã sẵn sàng.

    Ngày mười chín âm lịch trong tháng Savana (tháng 6 âm lịch), một số vị tỳ khưu đi quanh nói chuyện với nhau rằng: “ Trong hội chúng tỳ khưu này có một người vẫn còn phiền não,” rõ ràng là ám chỉ

    đến trưởng lão Ānandā. Khi trưởng lão Ānanda nghe những lời chế nhạo này, ngài biết không ai khác ngoài chính mình đang đi quanh phát ra mùi bất tịnh của phiền não. Vị ấy khởi tâm kinh cảm (saṃvega) từ những lời nói này. Những tỳ khưu khác đến nói với vị ấy rằng: “ Này hiền giả Ānanda, ngày mai hội nghị Kiết tập bắt đầu. Hiền giả vẫn còn phải tu tập để đạt đến những tầng thánh đạo bậc cao. Thật không thích hợp để hiền giả tham dự các nghi thức Kiết tập khi vẫn còn là bậc hữu học (là bậc thánh mà vẫn còn phải tu tiếp để chứng đắc đạo quả A-la-hán), chúng tôi muốn hiền giả dùng chánh niệm phấn đấu để thành đạt đạo quả A-la-hán trong thời gian sớm nhất.”

    Đạo quả A-la-hán ở ngoài bốn oai nghi

    Rồi trưởng lão Ānandā suy nghĩ, “ Ngày mai đại hội Kiết tập bắt đầu. Thật không thích hợp để ta tham gia các nghi thức Kiết tập khi vẫn còn là bậc hữu học (chỉ là sotāpaññā).” Vị ấy quán niệm về thân suốt đêm. Vào lúc sáng sớm, vị ấy nghĩ sẽ ngủ một lát. Khi đi vào tịnh xá, vị ấy chánh niệm nghiêng thân xuống chiếc giường. Khi hai bàn chân của vị ấy còn cách mặt đất và cái đầu của vị ấy chưa chạm vào gối, thì vị ấy chứng đắc đạo quả A-la-hán trong sát na, không thuộc bất cứ oai nghi nào.

    Giải thích thêm: Trưởng lão Ānanda thực hành thiền quán khi đang đi kinh hành trong lối mòn ở bên ngoài tịnh xá. Đạo quả (ở ba tầng bực cao) vẫn chưa được chứng đắc. Rồi trưởng lão nhớ đến những lời dạy của Đức Phật khi Ngài sắp Niết bàn: “ Này Ānandā, con đã làm nhiều việc phước. Hãy chuyên tâm thiền quán. Con sẽ sớm chứng đắc đạo quả A-la-hán.” Vị ấy biết rằng lời dạy của Đức Phật không bao giờ sai lạc. Vị ấy xem lại nỗ lực thiền quán của mình: “ Ta đã tinh tấn quá mức; điều này làm tâm ta bị phóng dật. Ta phải làm quân bình giữa tinh tấn và định.” Khi quán xét như vậy, vị ấy rửa chân và đi vào thiền thất, định sẽ nằm nghỉ một lát. Với chánh niệm, vị ấy nghiêng mình xuống chiếc giường. Khi hai bàn chân còn cách mặt đất

    và đầu chưa chạm gối, trong sát na lướt qua như vậy vị ấy chứng đắc đạo quả A-la-hán (arahatta-phala), đoạn diệt tất cả mọi lậu hoặc.

    Thế nên, nếu có người đặt câu hỏi: “ Vị tỳ khưu nào trong Giáo pháp đắc được đạo quả A-la-hán trong khi ở ngoài bốn oai nghi của thân?” Câu trả lời khẳng định là: “Trưởng lão Ānanda”.

    Ānanda được trưởng lão Mahā Kassapa khen ngợi

    Vào ngày thứ mười lăm của tháng hạ huyền Savana (tức là ngày mồng một tháng bảy) là ngày sau khi trưởng lão Ānanda chứng đắc đạo quả A-la-hán. Sau khi các ngài độ thực xong, những vị được tuyển chọn tham dự cuộc Kiết tập đã đem cất bát và những vật dụng khác rồi họp ở đại hội trường để bắt đầu công việc. Theo phong tục của tiểu lục địa Ấn độ, thời gian từ ngày rằm tháng Āsaḷha (tháng 6 đến tháng 7 dương lịch) đến ngày rằm tháng Savana được tính là một tháng. Trong suốt thời gian của một tháng ấy chư Tăng đã tham gia sửa chữa và bảo trì các tịnh xá. Vào ngày mười sáu của tháng Savana (tháng 7 Â.l.), các ngài thỉnh cầu vua Ajatasattu xây dựng một giả ốc. Việc xây dựng diễn ra trong ba ngày. Vào ngày thứ tư (20 tháng 7 Â.L) trưởng lão Ānanda chứng đắc đạo quả A-la-hán. Vào ngày thứ năm, công việc Kiết tập bắt đầu.

    Trưởng lão Ānanda tham dự hội đồng Kiết tập với tư cách

    một vị A-la-hán

    Trưởng lão đi vào giả ốc khi mọi người đã tham dự đông đủ. Khi mặc chiếc y vai trái theo cách được mô tả dành cho các vị tỳ khưu xuất hiện trước cuộc họp (hoặc để đi vào làng), vị ấy bước vào giả ốc với khuôn mặt tươi sáng như trái cây thốt nốt mới được hái xuống, hay như viên hồng ngọc được đặt trên miếng vải nhung màu trắng, hay như trăng rằm trong bầu trời quang đãng, hay như hoa sen nở dưới ánh nắng mặt trời. Sự tỏa sáng ấy từ sự thanh tịnh bên trong của vị A-la-hán. Sự rực rỡ của nó đã công bố đạo quả A-la-hán của chủ nhân.

    (Liên quan đến điều này, người ta có thể hỏi: “Tại sao trưởng lão Ānandā đi vào giả ốc tựa như công bố về đạo quả A-la-hán của vị ấy?” “ Một vị A-la-hán không công bố về sự chứng đắc arahatta-phala bằng lời nhưng vị ấy có thể để cho mọi người biết rõ sự thật và điều này được Đức Phật khen ngợi.” Trưởng lão Ānanda đã suy nghĩ như vậy. Vị ấy biết rằng hội đồng đã sắp xếp để vị ấy tham dự các nghi thức vì sự đa văn của vị ấy, cho dù vị ấy vẫn còn là bậc hữu học. Và khi xét thấy trưởng lão đã đắc quả A-la-hán, các vị tỳ khưu khác sẽ rất hoan hỉ khi biết sự thật này. Hơn nữa, vị ấy muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng những lời dạy cuối cùng của Đức Phật: “ Hãy tinh tấn tu tập, phận sự tối hậu của con sẽ được chứng đắc,” là rất bổ ích).

    Khi nhìn thấy trưởng lão Ānandā, trưởng lão Mahā Kassapa suy nghĩ: “ À, Ānanda đắc A-la-hán rồi trông thật rực rỡ. Nếu Đức Thế Tôn còn tại tiền, Ngài chắc chắn sẽ nói lời tán dương trong ngày hôm nay. Bây giờ ta phải thay mặt Đức Thế Tôn nói lời tán dương.” Và vị ấy nói rằng: “ Này hiền giả Ānanda, việc hiền giả chứng đắc đạo quả A-la-hán thật là rực rỡ, v.v…” Trưởng lão đã nói to những lời chúc mừng ấy ba lần.

    Các nghi thức của Hội nghị Kiết tập

    Sự có mặt của trưởng lão Ānandā, hội đồng đã có đủ năm trăm người tụng đọc được tuyển chọn. Trưởng lão Mahā Kassapa hỏi hội đồng rằng những cuộc tụng đọc bắt đầu từ đâu, Pháp gồm tạng Suttanta và tạng Abhidhamma nên tụng trước hay tạng Luật – Vinaya, được tụng trước. Chư Tăng đồng loạt trả lời: “ Thưa trưởng lão Mahā Kassapa, Vinaya là mạng mạch sống còn của Giáo pháp của Đức Phật. Vì nếu Vinaya tồn tại thì Giáo pháp của Đức Phật trường tồn. Do đó chúng ta hãy bắt đầu tụng Vinaya trước.” Khi ấy trưởng lão Mahā Kassapa bèn hỏi, “ Chúng ta sẽ chọn ai làm vị tỳ khưu dẫn đầu tụng Vinaya?” “ Chúng ta sẽ chọn trưởng lão Upāli làm vị tỳ khưu dẫn đầu.” “ Phải chăng Ānanda không có khả năng làm điều đó?” “

    Ānandā rất có khả năng làm điều đó. Tuy nhiên, khi Đức Thế Tôn còn tại tiền, Ngài đã công bố rằng Upāli là vị Thanh văn đệ tử Tối thắng nhất trong việc thông thuộc Vinaya. Do đó chúng ta sẽ chọn trưởng lão Upāli làm vị tỳ khưu dẫn đầu trong việc tụng đọc Vinaya.”

    Trưởng lão Mahā Kassapa là vị tỳ khưu chủ tọa kỳ đại hội Kiết tập lần thứ nhất. Trưởng lão cũng lãnh trách nhiệm nêu ra những câu hỏi. Trưởng lão Upāli lãnh trách nhiệm trả lời những câu hỏi về Vinaya. Hai vị tỳ khưu ngồi vào hai chỗ đặc biệt dành cho họ và dẫn chương trình. Mỗi điều luật được đặt thành câu hỏi bao gồm chủ đề, câu chuyện về bối cảnh, người là nguyên nhân để Đức Phật ban hành điều luật, điều luật gốc, điều luật bổ sung (nếu có), tới chừng mức nào thì sự vi phạm điều luật ấy tác thành tội hay không tội; và mỗi câu hỏi đều được trả lời đầy đủ dưới những tiêu đề ấy. Khi ấy chúng Tăng ghi nhận chúng bằng cách đồng loạt tụng lại, bổ túc chủ đề bằng những câu nói như: ‘ lúc bấy giờ’, ‘ lúc ấy’, ‘khi ấy’, ‘khi điều ấy được nói ra’, v.v… để kết vào vấn đề. Những bài tụng được thực hiện trong sự nhất trí, “ Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngụ ở Verañja, v.v…” (Sự tụng đọc những lời dạy của Đức Phật bởi chư Tăng trong một hội chúng đặc biệt như vậy thì được gọi là Sangāyanā.)

    Khi điều luật Pārājika thứ nhất vừa được tụng xong, thì đại địa chấn động dữ dội xuống thấu tầng nước nâng đỡ nó, tựa như đang vỗ tay ca ngợi một biến cố lịch sử cao quý.

    Ba điều luật Pārājika còn lại được tụng theo cùng cách tương tự, 227 điều luật còn lại cũng như vậy, mỗi điều luật được sắp xếp thành câu hỏi và theo sau là câu trả lời của nó. Toàn thể bài tụng có nhan đề là Pārājikaṇḍa Pāḷi, và cũng được gọi là Bhikkhu Vibhaṅga, được gọi chung là “Mahā Vibhaṅga”. Bộ luật được quy định là Chánh tạng, được giảng dạy ở các tịnh xá từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vào lúc kết thúc phần tụng bộ Mahā Vibhaṅga, đại địa cũng rung chuyển dữ dội như trước.

    Theo sau đó là 304 điều luật trong bộ Bhikkhunī Vibhaṅga, được tụng dưới dạng câu hỏi và câu trả lời cũng như trước. Bộ Bhikkhunī Vibhaṅga này và bộ Mahā Vibhaṅga được gọi chung là bộ

    Ubhato Vibhaṅga gồm có 64 tụng phẩm hay bhāṇavāra. Bộ luật được quy định là Chánh tạng được giảng dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vào lúc kết thúc sự tụng đọc bộ Ubhato Vibhaṅga thì đại địa cũng rung chuyển dữ dội như trước.

    Upāli được giao phó Tạng Luật – Vinaya

    Hội đồng kiết tập gồm năm trăm tụng sư đã giao phó bản tụng được phê chuẩn của tạng Luật cho trưởng lão Upāli bằng sự ủy quyền như sau: “ Này hiền giả, hãy giảng dạy tạng Luật (Vinaya Piṭaka) này đến các đệ tử mà thọ giáo hiền giả.” Khi tụng đọc Vinaya được hoàn tất, trưởng lão Upāli, sau khi làm xong phận sự của mình, đặt xuống cái quạt bằng ngà voi hình tròn trên chiếc ghế của vị tỳ khưu lãnh trách nhiệm trả lời những câu hỏi, rời khỏi chỗ ngồi, cung kính đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão, và ngồi vào chỗ ngồi đã được dành cho vị ấy.

    Sau khi tụng Vinaya, đến việc tụng tạng Dhamma ( tức Suttanta và Abhidhamma). Bởi vậy trưởng lão Mahā Kassapa hỏi hội đồng Kiết tập: “ Vị tỳ khưu nào sẽ khéo dẫn đầu trong việc tụng đọc Dhamma?” Hội đồng nhất trí đề cử trưởng lão Ānanda vào địa vị ấy.

    Rồi trưởng lão Mahā Kassapa tự chỉ định mình là người hỏi và trưởng lão Ānanda là người trả lời. Khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, sửa lại chiếc y vai trái và đảnh lễ các vị tỳ khưu trưởng lão, trưởng lão Ānanda cầm chiếc quạt tròn bằng ngà voi rồi ngồi trên chỗ ngồi đã được sắp xếp cho địa vị ấy. Kế họach tụng Dhamma được bàn luận do trưởng lão Mahā Kassapa và các vị đại trưởng lão tham dự như sau:

    Kassapa: Thưa các hiền giả, vì Giáo pháp có hai phần, là tạng Kinh (Suttanta Piṭaka) và tạng Vi diệu pháp (Abhidhamma), chúng ta nên tụng phần nào trước?

    Mahātheras: Thưa trưởng lão, chúng ta hãy bắt đầu tạng Suttanta Piṭaka. (Tạng Vinaya phần lớn liên quan đến Tăng thượng giới (adhi-sīla); tạng Suttanta liên quan đến Tăng thượng tâm tức là Định (adhi-citta); và tạng Abhidhamma phần lớn liên quan đến Tăng thượng tuệ

    (adhi-paññā). Do đó hội đồng đã tụng ba Học pháp gồm Giới, Định và Tuệ theo thứ tự ấy, nên chú ý như vậy).

    Kassapa: Thưa chư hiền giả, có bốn Bộ (Nikāya) gồm những bài kinh (sutta) trong tạng Suttanta Piṭaka, chúng ta nên tụng bộ nào trước?

    Mahātheras: Thưa trưởng lão, chúng ta hãy bắt đầu Trường bộ

    kinh (Dīgha Nikāya).

    Kassapa: Thưa chư hiền giả, Trường bộ kinh chứa 34 bài kinh trong ba phẩm (vagga), chúng ta nên tụng phẩm nào trước?

    Mahātheras: Thưa trưởng lão, chúng ta hãy bắt đầu phẩm

    Sīlakkhandha Vagga.

    Kassapa: Thưa chư hiền giả, phẩm Sīlakkhandha Vagga chứa mười ba bài kinh, chúng ta sẽ tụng bài kinh nào trước?

    Mahātheras: Thưa trưởng lão, bài kinh Phạm võng (Brahmajāla sutta) mô tả sinh động ba cấp độ của giới. Nó hữu ích cho sự đoạn trừ lời nói dối trá hay hành động đạo đức giả của các tỳ khưu gây bất lợi cho giáo pháp. Nó cũng giải thích 62 loại tà kiến. Nó đã khiến cho đại địa rung chuyển 62 lần khi nó được Đức Thế Tôn thuyết giảng. Do đó chúng ta hãy bắt đầu bài Brahmajāla sutta.

    Sau khi đã đồng ý dựa trên kế họach đã được phát thảo, trưởng lão Mahā Kassapa đặt ra những câu hỏi thích hợp về bài Brahmajāla sutta đến trưởng lão Ānanda về câu chuyện chính, nhân vật liên quan đến bài kinh, chủ đề, v.v… Trưởng lão Ānanda trả lời đầy đủ mọi câu hỏi, vào lúc kết thúc của bài kinh năm trăm vị kết tập đều đồng loạt tụng bài Brahmajāla sutta. Khi sự tụng đọc các bài kinh đã hoàn tất thì đại địa rung chuyển dữ dội như trước.

    Theo sau là sự hỏi, đáp và sự tụng đọc mười hai bài kinh khác của phầm Sīlakkhandha Vagga, mà được công nhận là nhan đề của phẩm và được quy định làm khóa học về kinh Tạng (Suttanta).

    Rồi phẩm Mahā vagga chứa mười bài kinh được tiếp nối, rồi đến phẩm Pāthika Vagga chứa 11 bài kinh, mỗi bài kinh đều có sự vấn và đáp. Từ đây 34 bài kinh trong ba phẩm (Vaggas), được tụng đọc 24 lần, được ghi lại là lời dạy của Đức Phật dưới nhan đề là Trường bộ kinh – Dīgha Nikāya, rồi các ngài giao phó phần kinh được chấp thuận ấy cho trưởng lão Ānanda, nói rằng: “ Này hiền giả Ānanda, hãy giảng dạy Dīgha Nikāya này đến chúng đệ tử đến thọ giáo.”

    Sau đó hội đồng phê chuẩn Trung bộ Kinh – Majjhima Nikāya, sau sự vấn đáp thường lệ, hết 80 lần tụng đọc cả thảy. Rồi các ngài giao phó phần kinh được chấp thuận cho chúng đệ tử của trưởng lão Sāriputta, nói rằng: “ Này các hiền giả, hãy khéo giữ gìn Majjhima Nikāya này.”

    Sau đó hội đồng phê chuẩn Tương ưng bộ – Saṃyutta Nikāya, sau sự vấn đáp thường lệ, hết 100 lần tụng đọc. Rồi các ngài giao phó phần kinh ấy cho trưởng lão Mahā Kassapa, nói rằng: “ Thưa trưởng lão, hãy giảng dạy Saṃyutta Nikāya này, những lời dạy của Đức Thế Tôn, đến chúng đệ tử thọ giáo.”

    Sau đó hội đồng phê duyệt Tăng chi bộ – Aṅguttara Nikāya, sau sự vấn đáp thường lệ, hết 120 lần tụng đọc. Rồi các ngài giao phó phần kinh ấy cho trưởng lão Anuruddha, nói rằng: “ Thưa trưởng lão, hãy giảng dạy Aṅguttara Nikāya này đến chúng đệ tử thọ giáo.

    Sau đó hội đồng phê duyệt bảy bộ Abhidhammā, đó là DhammasaṅgaṇīVibhaṅgaDhātukathāPuggala paññattiKathāvatthu, Yamaka và Paṭṭhāna, sau sự vấn đáp thường lệ và những bài tụng đọc. Vào lúc kết thúc bộ Abhidhammā, đại địa rung chuyển dữ dội như trước.

    Sau đó hội đồng tụng các bộ: Jātaka, NiddesaPaṭisambhidā MaggaApadāna, Sutta Nipāta, KhuddakapāṭhaDhammapada, Udāna, ItivuttakaVimānavatthuPetavatthu, Theragātha, và

    Therīgāthā, sau sự vấn đáp thường lệ. Mười ba bộ kinh này được gọi chung là Tiểu bộ kinh – Khuddaka Nikāya.

    Theo các vị trưởng lão thuộc lòng kinh Trường bộ (Dīgha Nikāya), nói rằng, “ Kinh Tiểu bộ (Khuddaka Nikāya) được tụng đọc và phê duyệt chung với tạng Abhidhammā.” Nhưng theo các vị thuộc lòng kinh Trung bộ (Majjhima Nikāya) thì 13 cuốn sách này, cùng với bộ Buddhavaṃsa và bộ Cariyā Piṭaka, cộng chung là 15 bộ, được đặt tên là Tiểu bộ Kinh – Khuddaka Nikāya và được phân loại là Kinh Tạng – Suttanta Piṭaka. (Những lời tuyên bố này dựa trên Chú giải của bộ Sīlakkhandha. Một thời tụng hay Bhāṇavāra là khoảng thời gian tụng một phần kinh tạng, theo đồng hồ hiện đại của chúng ta thì khoảng nửa tiếng đồng hồ. Việc nêu danh các vị tỳ khưu trưởng lão quan trọng, đó là trưởng lão Mahākassapa, trưởng lão Upāli và trưởng lão Ānanda, trong những chức vụ khác nhau, được ghi lại trong bộ Vinaya Cūlavagga Pañcasatilakkhandhaka).

    Như vậy trưởng lão Ānandā là vị tỳ khưu quan trọng trong cuộc Kiết tập lần thứ nhất, trả lời lưu loát nhất tất cả những câu hỏi liên quan đến Pháp bao gồm tạng Kinh và tạng Abhidhamma.

    (Đây là bài mô tả vai trò quan trọng của trưởng lão Ānanda

    trong cuộc Kiết tập lần thứ nhất).

    Sự viên tịch của trưởng lão Ānanda

    Vào thời kỳ của cuộc Kiết tập lần thứ nhất, năm 148 Great Era, trưởng lão Ānanda ra đời cùng ngày với Đức Phật, thọ tám mươi tuổi. Vào năm thứ bốn mươi sau cuộc Kiết tập lần thứ nhất, trưởng lão thọ đến 120 tuổi, trưởng lão xem lại mạng quyền của mình và thấy rằng chỉ còn sống thêm bảy ngày nữa. Trưởng lão nói điều này với các đệ tử.

    Khi mọi người biết được tin này thì những người sống ở bờ bên này của con sông Rohiṇī ( là nguyên nhân gây tranh chấp giữa hai bộ tộc Sakyan và Koliyan liên quan đến sự phân phối nước trong con sông ấy, dẫn đến sự thuyết giảng bài Mahāsamaya Sutta) nói rằng

    trưởng lão Ānanda hưởng lợi lộc nhiều từ họ và vì thế trưởng lão sẽ Niết bàn ở trên dãi đất bờ bên này của con sông Rohiṇī. Và những người sống ở bờ bên kia của con sông Rohiṇī cũng nói như vậy.

    Khi nghe những lời nói này từ cả hai bên, trưởng lão Ānanda suy nghĩ: “ Người dân ở cả hai bên đều đem lại nhiều lợi ích cho ta. Không ai có thể bác bỏ sự thật này. Nếu ta Niết bàn ở bờ bên này của con sông, thì người dân sống ở bờ bên kia sẽ đánh nhau với dân chúng ở bờ bên này để tranh giành Xá-lợi của ta. Và nếu ta nhập Niết bàn ở bờ bên kia của con sông, thì người dân sống ở bên này sẽ đánh vì lý do trên. Khi ấy ta sẽ trở thành nguyên nhân của sự xung đột giữa những người dân ở hai bên bờ sông. Để có sự hòa bình thì ta phải là nguyên nhân của sự hòa bình. Nó tùy thuộc vào sự hành xử của ta.” Sau khi suy xét như vậy, trưởng lão nói với cả hai nhóm người như vầy: “ Thưa các thiện nam tín nữ sống ở bờ sông bên này đã làm nhiều lợi ích đến tôi. Cũng thế, những thiện tín sống ở bờ sông bên kia cũng đã làm nhiều lợi ích đến tôi. Trong quý vị không ai mà chưa làm lợi ích đến tôi. Xin các vị ở bờ bên này hãy họp chung với các vị ở bờ bên kia.”

    Rồi vào ngày thứ bảy, trưởng lão ở trên không trung cao tkhoảng bảy cây thốt nốt, ngồi kiết già trên cao giữa con sông Rohiṇī và thuyết pháp đến mọi người.

    Vào lúc kết thúc thời pháp, trưởng lão phát nguyện rằng thân Xá-lợi của ngài sẽ chia ra làm hai phần, mỗi phần sẽ rơi xuống mỗi bên của con sông. Rồi trưởng lão nhập thiền đề mục tejo dhātu, là nền tảng của các pháp thần thông. Khi xuất khỏi định ấy, lộ trình tâm liên quan đến thần thông sanh lên trong trưởng lão. Ở sát na đổng lực của lộ trình tâm ấy thân của trưởng lão bốc cháy và ngay sau khi kết thúc lộ trình tâm, tâm tử sanh lên và trưởng lão nhập Vô dư Niết bàn.

    Thân Xá-lợi đã tách đôi như trưởng lão đã nguyện, một phần rơi xuống phía bên này của con sông, và phần kia rơi xuống ở phía bên kia. Dân chúng ở cả hai bờ sông đều khóc than thảm thiết. Sự bộc phát tình cảm vang dội tựa như quả đất tự nó vỡ tung. Sự ta thán trong trường hợp này xem ra còn thảm thiết hơn lúc Đức Phật Niết bàn. Họ

    đã than khóc suốt bốn tháng rằng: “ Từ khi Đức Phật Niết bàn, chúng ta tìm sự khuyên giải nơi vị thị giả của Đức Phật, người mang y và bát của Ngài. Nhưng giờ đây, người mang y bát ấy đã không còn nữa, chúng ta chẳng biết tìm khuyên giải ở đâu. Sự nhập Niết bàn của Đức Phật đối với chúng ta giờ đây xem như đã hết.”

    Saṁvega gāthā

    Hā saṃyogā viyogantā,

    Thật đáng sợ thay – khi sự sầu bi, ta thán, v.v… đến với ta – tất cả đều do sự kết hợp giữa vợ chồng, quyến thuộc, bạn bè, thầy trò, v.v… vì sự phân ly chắc chắn sẽ đến giữa những người thân mến hoặc do sự chết hoặc do rời xa.

    Hā aniccā’va sankhatā,

    Đáng sợ thay – khi sự sầu bi, ta thán, v.v… đến với ta – là tất cả những pháp hữu vi, những sản phẩm của nghiệp, tâm, nhiệt độ và chất dinh dưỡng, do bởi tánh chất vô thường của chúng.

    Hā uppannā ca bhaṅgantā,

    Đáng sợ thay – khi sự sầu bi, ta thán, v.v… đến với ta – là tất cả những hiện tượng có điều kiện có tánh chất sanh khởi vì chúng phải bị biến họai và tan rã.

    Hā hā saṅkhāradhammatā.

    Đáng sợ thay – vì khả năng bị chìm trong đại dương đầy hỗn loạn của đau khổ – là dòng danh sắc không thể thay đổi được, là những pháp hữu vi, có đặc tánh vô thường, khổ và vô ngã.

 

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Thích Minh Tuệ
Sàigòn 1991- Pl 2535

 

Tôn Giả A Nan Đà
Anada – Đa Văn Đệ Nhất

 

Trong hàng Thánh chúng hay thập đại đệ tử của Đức Phật, A Na Đà (Ananda) là vị trẻ nhất. Tôn giả là vị luôn luôn túc trực bên cạnh Phật, Tôn giả là vị có nhiều đặc điểm nhưng điểm đặc biệt nhất của Ngài là trí nhớ. Tôn giả nhớ hết tất cả kinh điển do Phật tuyên giảng. Bởi thế Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có kệ khen tặng A Nan rằng:

Tướng như thu mãn nguyện

Nhãn tợ thanh liên hoa

Phật pháp như đại hải

Lưu nhập A Nan tâm.

Dịch là: Tướng giống trăng thu đầy

Mắt giống hoa sen xanh

phật Pháp như biển rộng

Rót vào tâm A Nan.

Tôn giả được Đức Phật và thánh chúng suy tôn là vị Đa Văn Đệ Nhất.

Dòng Họ và Danh Hiệu A Nan Đà

A Nan Đà gọi ngắn gọn là A Nan, em ruột của Đề Bà Đạt Đa, con thứ của Bạch Phạn Vương, tức là em con chú của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. A Nan sinh ra trong đêm Đức Phật thành đạo dưới cội bồ đề, cho nên tên của Ngài còn có nghĩa là Khánh Hỷ (vui mừng). A Nan rất khôi ngô tuấn tú, thông minh, hòa nhã và vui vẻ. Khi trở về thành Ca Tỳ La Vệ, thấy A Nan Đức Phật biết A Nan sẽ là vị kế thừa mạng mạch Phật pháp sau này. Cho nên khi dọn chỗ ở, Đức Phật đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận phòng A Nan. Mỗi buổi sáng mở cửa nhìn qua, A Nan thấy Phật và cung kính bái chào. Ngày ngày chú bé A Nan lân la bên Phật và quạt cho Phật khi nóng nực.

Thấy con mến Phật, ngại chú bé có thể chịu ảnh hưởng của Phật và nhất là sợ con sẽ xuất gia theo Phật, nên Bạch Phạn Vương gởi A Nan sang nước Tỳ Xá Ly. Vì nhớ nhà, nhớ cha mẹ và nhớ Phật chú bé A Nan khóc đòi về. Rồi cũng không thể xa chú bé ngây thơ, mủm mỉm duyên dáng, đẹp đẽ lại thông minh, Bạch Phạn Vương lại đưa chú bé A Nan về thành Ca Tỳ La Vệ.Với luật tương duyên việc gì đến sẽ đến, có cản ngăn cũng không được. Khi đã thấm nhuần mưa pháp, một số vương tôn công tử xin Phật xuất gia, dù còn bé, A Nan cũng xin các Vương tôn được đi theo Phật. 

 

 

Đạo Nghiệp của A Nan Đà

 

 

Làm Thị giả Phật 

 

 

Sau khi được theo Đề Bà Đạt Đa, A Na Luật, Ưu Ba Ly, La Hầu La… về Trúc Lâm Tinh Xá, dù còn nhỏ tuổi, A Nan rất siêng năng tham dự các buổi thuyết pháp của Phật. Với tính thông minh sẳn có, A Nan nhớ hết những lời Phật nói, ngược hẳn với Châu Lợi Bàn Đà Già, học một câu kệ 3 tháng mà không thuộc, A Nan nghe một biết mười. Thế nhưng Châu Lợi Bàn Đà Già chứng thánh quả khi Phật còn tại thế, A Nan phải đến sau Phật Niết Bàn 3 tháng mới chứng quả A La Hán, trước ngày khai mạc đại hội kiết tập kinh điển một hôm.

 

 

Dù A Nan thông minh có thể nối thạnh Phật pháp theo sự nhận xét của Đức Phật, nhưng tuổi còn nhỏ cần có thời gian tập sự, mãi đến hai mươi năm sau, A Nan mới được tăng đoàn đề nghị làm thị giả hầu cận Phật. Từ sau khi Đức Phật thành đạo cho đến lúc Ngài A Nan được cử làm thị giả, Phật không có một thị giả nào nhất định. Thân cận Phật lúc đầu có Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, tiếp đến có Tỳ kheo Na Ca Ba La, rồi nhiều tỳ kheo khác thay nhau hầu Phật. Năm Đức Phật 50 tuổi, tăng đoàn thấy Phật cần có một thị giả thường trực bên cạnh, để giúp đỡ Phật mọi sự cần thiết. Vì thế, Tăng đoàn mở một đại hội để chọn thị giả, trong hội có nhiều vị tỳ kheo xung phong nhưng Phật đều không thuận. Tôn giả Mục Kiền Liên thấy trong số đệ tử không ai hơn Ngài A Nan, nên Ngài liền đến khuyên A Nan rằng:

 

 

· Này A Nan! Ý Đức Thế Tôn muốn ông làm thị giả, ông hội đủ nhiều yếu tố, đặc biệt là dựa vào trí nhớ, về sau ông có thể thay đức Thế Tôn tuyên dương diệu pháp. Ông giống như một tòa lâu đài to lớn, mở cửa sổ ở phía đông là có thể giúp cho ánh sáng rót thẳng vào vách phía tây. 

 

 

Nghe nói, thấy trách nhiệm lớn lao quá sợ không kham nổi A Nan từ chối, nhưng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên mãi cuối cùng A Nan nhận. Nhưng e ngại tyï hiềm có thể xảy ra, A Nan yêu cầu Tôn Giả Mục Kiền Liên trình lên Đức Phật 5 thỉnh nguyện:

 

 

1. Không mặc áo Phật cho dù cũ hay mới. 

 

 

2. Không đi trước khi có Phật tử thỉnh về nhà cúng dường. 

 

 

3. Được ngoài hay đi chỗ khác, khi Phật tiếp tín chúng đến hỏi đạo, nếu sự hiện diện của thị giả không cần thiết. 

 

 

4. Không ăn thức ăn thừa của Phật 

 

 

5. Được tùy tiện sắp xếp hoặc cho hay không cho mỗi khi có khác muốn đến yết kiến Phật. 

 

 

Khi 5 thỉnh nguyện trình lên, Phật hoan hỷ chấp thuận ngay vì Phật thấu hiểu tâm tư A Nan và hết lòng khen ngợi A Nan là người thông minh, tế nhị, thuần hậu, vui vẻ.

 

 

Giúp cho nữ giới xuất gia

 

 

Khi vua Tịnh Phạn băng hà, Phật về thành Ca Tỳ La Vệ lo việc lễ táng và sau khi đã đề cử Ma Ha Nam lên làm vua, Đức Phật đến tạm trú tại rừng Ni Câu Đà. Thấy nhà vua đã mãn phần, việc triều chính cũng đã có nguời lo, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề rất hài lòng qua sự sắp xếp của Phật. Một hôm bà dẫn 500 thể nữ thuộc dòng họ Thích đến rừng Ni Câu Đà bái yết Phật, xin được xuất gia và dâng lên Phật hai tấm y do bà tự tay cắt may. Đức Phật không chấp thuận cho nữ giới xuất gia, dù bà nhiều lần khẩn khoản cầu xin. Theo Phật, giới nữ nặng về tình cảm, nhẹ ý chí, có thể gây phiền hà rắc rối cho giáo đoàn. Bởi thế, giáo đoàn có sự tham dự của phụ nữ chánh pháp sẽ giảm mất 500 năm.

Di Mẫu vô cùng buồn bã khi Phật nhiều lần từ chối. Để làm cho Di Mẫu vui lòng, Đức Phật nhận một tấm y, tấm còn lại Phật khuyên nên đem cúng dường cho một vị tăng khác. Sau khi thấy nước Ca Tỳ La Vệ ổn định về mọi mặt, Đức Phật cùng tăng chúng rời Ni Câu Đà đi du hóa vùng lưu vực sông Hằng. Di Mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề không bỏ ý hướng quyết tâm xin Phật xuất gia. Một hôm bà cùng 500 thể nữ xuống tóc, mặc cà sa, và vượt qua hai ngàn dặm đường để đến Tinh Xá Na Ma Đề Kiền Ni, nơi Phật đang giáo hóa để bái yết khẩn cầu. Vượt qua bao dặm đường dài hiểm trở lại gặp trời mưa gió nên cả đoàn mệt lả.

Khi đến Tinh Xá thì trời cũng vừa tối nên đoàn người đành dừng chân ở cổng, đợi đến sáng mai sẽ vào thỉnh Phật cho xuất gia nếu không được thì cũng chết ở đây chứ không trở về thành Ca Tỳ La Vệ. Lúc sáng sớm vì có việc cần phải ra ngoài Tinh Xá, Tôn giả A Nan bất chợt gặp Di Mẫu và 500 thể nữ dòng họ Thích, mình khoác cà sa và đã thế phát đang đứng trước cổng Tinh Xá trông thật vô cùng thiểu não. Tôn giả vô cùng thương cảm nên hứa với Di Mẫu sẽ khẩn khoản xin Phật cho phái nữ được xuất gia. Để đáp lại nhiệt tình và ý chí cao độ của Di Mẫu, Đức Phật chấp thuận lời thỉnh cầu của A Nan, nhưng buộc ni giới phải giữ thêm một số giới pháp và triệt để tuân hành Bát kỉnh pháp. Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề vô cùng hân hoan và xin triệt để tuân hành lời Phật dạy. Ni giới rất nhớ ơn Tôn giả nên mỗi khi có dịp gặp Ngài họ rất vui mừng và tiếp rước Ngài một cách niềm nở cung kính.

 

 

Ác Mộng 

 

 

Khi thấy Đức Thế Tôn ngày càng già yếu, lòng A Nan vô cùng lo lắng, nếu Phật vào Niết Bàn A Nan biết dựa vào đâu để tu học và chứng quả thánh. Trong một đêm nằm mộng thấy 7 diềm quái lạ, A Nan cảm thấy lo sợ hoang mang. Sáng sớm thức dậy A Nan đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và kể lại 7 điềm mộng xin Đức Phật giải thích:

 

 

1. Khắp nơi các ao ngòi sông hồ biển cả dều bị lửa dữ rực cháy, khô cạn tất cả. 

 

 

2. Mặt trời rơi rụng, thế giới tối đen, không có một ánh sao, đầu con vượn lao lên chín tầng mây. 

 

 

3. Các Tỳ kheo không tuân giữ giới luật treo áo cà sa. 

 

 

4. Trong cảnh chông gai lao lý Tỳ kheo khốn khổ, pháp y tơi bời. 

 

 

5. Cây chiên đàn xanh tươi bị các đàn heo rừng đến bới gốc, trốc rễ. 

 

 

6. Không nghe lời voi mẹ, vo con tung tăng chạy khắp nơi, lạc vào chốn đồng khô cỏ cháy, chết đói chết, khát ngổn ngang. 

 

 

7. Sư tử chết, các loài điểu thú côn trùng không dám đến gần, dòi từ trong ruột sư tử bò ra lúc nhúc, rúc tỉa thịt xuơng sư tử. 

 

 

Khi nghe A Nan kể, biết đó là điềm chẳng lành Phật giải thích:

 

 

· Này A Nan! Đã là mộng nên làm gì có thực, tất cả đều do tâm thức biến hiện, chắc lòng ông có gì khắc khoải lo âu! Tuy nhiên giữa cái có và cái không vốn không tách biệt, bởi thế giấc mộng của ông là điềm báo trước giáo pháp của ta trong tương lai. 

· Này A Nan! Điềm thứ nhất: Lửa cháy thiêu đốt, sông biển khô cạn, biểu hiện tương lai các vị Tỳ kheo được hưởng đầy đủ mọi sự cúng dường nhưng lại không giữ giới pháp thanh tịnh, khởi xướng nhiều việc đấu tranh gây gỗ. 

· Điềm thứ hai: Sau khi ta Niết Bàn giống như trời đất mù tối, để chánh pháp không bị lu mờ, Tăng đoàn sẽ yêu cầu ông tuyên dương giáo Pháp. 

· Điềm thứ ba: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông không lo tu hành. 

· Điềm thứ tư: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo không lo tu giới, định, tuệ, xuôi theo thế tục có vợ con đùm đề. 

· Điềm thứ năm: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo chỉ chuyên buôn Phật, bán thánh, đem chánh pháp làm phương tiện đổi chác, mong cầu lợi dưỡng. 

· Điềm thứ sáu: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo trẻ tuổi không chịu học tập theo lời dạy dỗ của sư trưởng, không tin nhân quả tội phước, chết đọa vào địa ngục. 

· Diều thứ bảy: Trong tương lai chính đệ tử Phật phá hoại giáo pháp của Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá hoại chánh pháp. 

 

Trong 7 điềm mộng, ngay sau khi Phật Niết Bàn 3 tháng, điềm thứ hai đã xảy ra tại núi Kỳ Xà Quật. Tôn giả Ca Diếp mở cuộc Kiết tập kinh điển, Ton giả A Nan được yêu cầu tuyên đọc tạng kinh.

 

Yêu cầu Đức Phật Di Giáo

Tại rừng Ta La Song Thọ, thành Câu Thi Na, khi Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, người khóc than thê thảm nhất là Ngài A Nan, Đức Phật khuyên A Nan không nên khóc vì ở đời có sinh tất có diệt. Con người có hợp thì có tan, đó là một định luật không ai có thể cưỡng lại được, Phật tuy đã giác ngộ và giải thoát nhưng dư báo vẫn còn cho nên phải xả để vào vô dư Niết Bàn. Tất cả giáo pháp tự lợi, lợi tha, Đức Phật đã tuyên giảng đầy đủ, con đường tiến đến chân trời giác ngộ, giải thoát Phật đã chỉ rõ. Do đó Phật còn ở lại thế gian cũng bằng thừa, hơn nữa có Phật mọi người sẽ ỷ lại, không chịu khắc phục thân tâm tiến tu đạo nghiệp. Trước giờ phút Niết Bàn Phật hỏi đại chúng còn gì nghi ngờ hãy nêu rõ.

Tôn Giả A Nan đến trước Đức Phật đảnh lễ và thưa:

· Bạch Đức Thế Tôn! Con có 4 điều thắc mắc xin Đức Thế Tôn chỉ giáo: 

· Thứ nhất: Sau khi Đức Thế Tôn Niết Bàn chúng con biết nhận ai làm thầy? 

· Thứ hai: Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng con biết nương tựa vào đâu? 

· Thứ ba: Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng con làm sao hàng phục kẻ dữ? 

· Thứ tư: Sau khi kiết tập kinh điển, nên để lời gì ở đầu mỗi kinh? 

 

Đức Phật trả lời:

 

· Này A Nan sau khi ta nhập Niết Bàn thứ nhất các ông hãy lấy Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) làm thầy. 

· Thứ hai: Hãy an trú vào Tứ niệm xứ (Quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, quán thọ thị khổ). 

· Thứ ba: Hãy dùng phép mặc tẩn (làm lơ, không giao thiệp luận bàn) để hàng phục kẻ dữ. 

· Thứ tư: Đầu mỗi kinh nên để câu Như thị ngã văn (Tôi nghe như vầy), mà kiết tập kinh điển. 

trả lời xong Phật khuyên A Nan và đại chúng hãy tự mình thắp đuốc mà đi, giáo pháp của Như Lai chỉ là phương tiện chỉ đường. Đức Phật cũng khuyên các Tỳ kheo nên siêng năng tinh tấn thực hành giáo pháp tự lợi, lợi tha.

Tham dự kiết tập kinh điển

Sau khi Đức Phật nhập diệt Tôn giả Đại Ca Diếp tổ chức đại hội kiết tập kinh điển suốt ba tháng, Ngài A Nan đuợc đại hội đề cử tụng lại tất cả các kinh do Phật đã dạy. Tuy nhiên đại hội yêu cầu A Nan phải sám hối sáu sai lầm đã vấp phải khi Phật còn tại thế, và hãy ra ngoài dốc lòng tu tập cho đến khi nào chứng quả A La Hán mới trở vào tham dự đại hội. Sáu tội Đột Cát La mà A Nan phải sám hối là:

1. Do A Nan thỉnh cầu Phật nhận nữ giới vào giáo hội. 

2. Mượn cớ nước không sạch, A Nan không cung cấp nước cho Phật uống, lúc ở gần thành Duy Ra Yết. 

3. Đã biết Đức Phật có đại thần lực, có thể khiến nước đục trở thành trong, A Nan vẫn không lấy nước dâng Phật. 

4. Phật nhắc ba lần về điều người tu học dược tứ thần túc, có thể kéo dài thêm mạng sống, A Nan im lặng chẳng thưa thỉnh Phật mới vào Niết Bàn. 

5. Là thị giả cần cẩn thận, A Nan đã dẫm chân lên y Tăng già lê của Phật. 

6. Sau khi Phật Niết Bàn, A Nan đã cho nữ giới xem tướng mã âm tàng của Phật. 

Với tâm hoan hỷ nhu thuận sẳn có, Tôn giả đã thành tâm sám hối sáu điều mà đại hội yêu cầu. Sau đó Tôn giả ra ngoài động kiếm chỗ vắng vẻ ngồi kiết già nỗ lực tu tập, vào nữa đêm Ngài chứng được A La Hán quả. Khi trời vừa sáng Tôn giả trở vào động cũng vừa đúng lúc đại hội bắt đầu. Trước thánh chúng Tôn giả trùng tuyên 4 bộ kinh A Hàm: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm và Tăng Nhất A Hà. Ngoài ra còn có một số kinh khác như: Kinh Thí dụ, Kinh Bổn Sanh, Kinh Pháp Cú…Trong cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất A Nan đã thực hiện trọn vẹn di chúc của Phật là, đại diện Phật tuyên dương chánh pháp.

A Nan Niết Bàn

Sau Khi Đức Phật Niết Bàn Tôn giả Đại Ca Diếp thống lãnh giáo đoàn cho đến lúc hơn 100 tuổi thì vào Niết Bàn. Người thừa kế là Tôn giả A Nan, vị tổ thứ hai theo Bắc Tông Phật giáo. Đến khoảng 120 tuổi, tự thấy cơ thể già yếu Tôn giả quyết định nhập Niết Bàn. Ngài đem chánh phá và giáo đoàn giao lại cho Thương Na Hòa Tu lãnh đạo. Chánh pháp đã có người tiếp nhận kế thừa, Tôn giả A Nan lại phân vân không biết nên Niết Bàn ở Ma Kiệt Đà hay Tỳ Xá Ly. Đức Phật truyền dạy giáo pháp bình dẳng cho nên phải loại trừ tâm thiên vị, gây oán thù, tranh chấp, hơn nữa lúc bấy giờ hai nước đang giao chiến đối đầu nhau. Cuối cùng để hai nước khỏi so bì, Tôn giả chọn sông Hằng làm nơi nhập diệt, vì sông Hằng là biên giới của hai nước.

Nghe tin Tôn giả A Nan sắp Niết Bàn ở sông Hằng, Vua A Xà Thế tức tốc đến mé sông thì A Nan đã lên thuyền ra giữa sông, Vua mời A Nan trở lại. Bên kia bờ dân chúng Tỳ Xá Ly cũng dến bờ sông xướng lời thỉnh cầu Tôn giả qua Tỳ Xá Ly Ra đến giữa sông Tôn giả A Nan nói lớn:

· Vì hai nước bất hòa, hai bên còn oán hận nhau ta không biết nên Niết Bàn ở nước nào cho hợp lẽ. Do đó ta xét thấy ra giữa sông nhập diệt là giải pháp công bằng nhất, ta cầu mong hai nước chấm dứt chinh chiến lập lại hòa bình thân hữu. 

Sau khi chỉ dạy dân chúng hai bên và vua A Xà Thế, Tôn giả nhập định tam muội vào Niết Bàn. Xá Lợi của Tôn giả được chia cho hai nước xây tháp tôn thờ, một tháp xây ở giảng đường Đại Long phía Bắc Tỳ Xá Ly, một tháp xây cạnh Tinh Xá Trúc Lâm, thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Nhờ cách nhập diệt và lời kêu gọi của Tôn giả, hai nước hòa giải được hận thù, chấm dứt chinh chiến sống trong hòa bình. Sự nhập diệt của Tôn giả đã giúp cho tài sản hai nước khỏi thiệt hại, sinh mạng của nhân dân được cứu vãn, vì thế nhân dân hai nước vô cùng nhớ ơn Tôn Giả.

Qua cuộc đời và đạo nghiệp của Tôn giả A Nan, có một vài vấn đề cho chúng ta cần đề cập đến. Trước hết là Tôn giả đã giúp cho phái nữ xuất gia, vấn đề mà nhiều lần chính Đức Phật đã khước từ. Dù Đức Phật chủ trương bình đẳng, nhưng trong thực tế nam nữ chung đụng hay nảy sinh nhiều chuyện phức tạp, làm tổn hại đến thanh danh của tăng đoàn khiến sự trường tồn của chính pháp cũng bị suy giảm, đó là lý do Phật không nhận phái nữ xuất gia. Không phải A Nan không rõ lý do nhưng với bản tính dịu hiền, hay ưu ái phái nữ, A Nan đã mạnh dạn xin Phật cho bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề và 500 thể nữ xuất gia. Chính cũng vì lý do xin cho phái nữ xuất gia trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất, A Nan đã bị đại hội kết tội và buộc phải sám hối. Dù bị buộc tội làm cho chính pháp suy giảm, nhưng Tôn giả đã góp phần cho giáo đoàn của Phật có được trọn vẹn tinh thần bình đẳng của Phật. 

Thứ đến là vấn đề bùa chú, trên đường đi khất thực một mình, A Nan đã bị Ma Đăng Già bỏ bùa suýt mất giới hạnh, nhờ thần chú Lăng Nghiêm mà thoát nạn. Người ta thường cho bùa là thứ phù phép siêu hình, riêng chúng tôi thấy vấn đề đó chẳng có bùa phép siêu hình gì hết. Chẳng qua người ta rút từ động vật hay thực vật ra một số hóa chất nào đó làm mê mẩn con người mà thôi, khi hóa chất tan hết, con người trở lại bình thường, còn chữ và hình vẽ chỉ là một thứ trang trí làm mà mắt thiên hạ.

Cụ thể như tỏi nén là chất làm cho rắn bị mê, sả có mùi làm cho rắn sợ không dám đến gần, dầu mè dầu phụng có tác dụng đẩy tử khí ra ngoài, ngược lại dầu thơm làm xúc tác cho tử khí tăng mùi, thuốc Imenocotan làm cho người ta hôn mê… Còn thần chú, muốn có hiệu quả, người trì chú phải có nhiều dụng công, tỉnh tâm, định lực, thông thường gọi là phải tu luyện, cùng một bài chú có người đọc linh nghiệm, có người đọc không linh nghiệm là do có công phu tu luyện hay không.

Thần chú là một phương tiện khi chú tâm trì tụng giúp cho định lực cao cường, cõi lòng vắng lặng chi phối được tâm tư người khác. Thôi miên hoặc thần giao cách cảm cũg thuộc dạng này, nhưng thấp hơn tu luyện bằng thần chú, sự thật chỉ có thế chứ chẳng phải siêu hình gì hết. A Nan vì chưa chứng thánh nên phải bị thần chú của Ma Đăng Già mê hoặc, Ngài Xá Lợi Phất đã chứng A La Hán, Thánh định lực cao nên khi đọc chú Lăng Nghiêm đã chuyển được tâm tánh Ma Đăng Già. 

Một vấn đề khác là giấc mộng của A Nan trở thành biểu hiện trong thực tại. Mộng có thể thực có thể không thực. Chẳng hạn ban ngày chúng ta tiếp xúc với vấn đề gây khủng hoảng tâm lý, đêm có ác mộng, đó là mộng không thực. Khi nằm ngủ vì một động tác nào đó làm động mạch tắc nghẻn, mộng sinh ra đó là mộng không thực. Còn ngày hoặc đêm chúng ta quan tâm đến một vấn đề nào đó, trong giấc ngủ từ tiềm thức trồi lên các hình ảnh mộng, những điềm đó có thể thành hiện thực. Khi có điều kiện Phật gọi là nhân duyên. Tôn giả A Nan có 7 điều mộng là do Tôn giả đã có sẳn tư duy về vấn đề tuổi già của Phật và sau khi Phật vào Niết Bàn có những gì sẽ xảy ra, từ tư duy đó tiềm thức làm việc và cho hình ảnh kết quả.

Đức Phật đã dựa vào 7 điều mộng để dự đoán. Từ sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn đến nay, những điều Phật dựa vào mộng để dự đoán đều đúng, vì Phật là bậc giác ngộ, có trí tuệ ưu việt siêu đẳng cho nên tìm được hệ luận của mộng. Với ba vấn đề qua tư duy và trình bày của chúng tôi ở trên chỉ là ý kiến gợi ý cá nhân, do đó vấn đề cần có thời gian để tư duy và thực nghiệm thêm, mới có thể xác thực hơn. Sau cùng với thời hiện đại, với giáo pháp của Phật, chúng ta đa phần thiên về nghiên cứu, lý thuyết nhiều hơn là thực nghiệm tu chứng. Bởi thế chúng ta cần noi gương Tôn giả A Nan trong vấn đề tuyên dương chánh pháp để tự lợi và giúp ích cho mọi người nhiều hơn. Lấy chính pháp trang nghiêm bản thân, trang nghiêm Phật giáo cũng chính là để góp phần trang nghiêm xây dựng quốc độ, an bình, phúc lạc. 

 

II Sách nói Tôn giả A Nan-Đa đa văn đệ nhật

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state