Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tôn Giả Ca Chiên Diên Katyayana – luận Nghị Đệ Nhất
Ngày xưa để được gọi là một nhà nho đúng nghĩa, ngoài thông hiểu tứ thư, ngũ kinh, biết làm thơ phú, nhà nho còn phải biết thêm bốc, y, lý và số. Về Phật giáo để được toàn bích ngoài thông hiểu nội điển, một tăng sĩ cần phải biết thêm Thanh minh, Nhân minh, Công xảo minh và Y phương minh gọi chung là Ngũ Minh. Nếu không được như thế, tối đa cũng phải biết 4 hoặc 3, tối thiểu phải biết hai minh. Vì trong khi truyền đạo, dù thuộc kinh điển nhưng trình bày không mạch lạc, khúc chiết, lý luận không biện chứng, logic, thì khó mà thuyết phục được người nghe. Mặt khác, nếu thuộc kinh điển có lý luận, nhưng giữa diễn giả và thính chúng ngôn ngữ không đồng, phải nhờ đến thông dịch, diễn giả cũng không thể truyền đạt hết tư tưởng, quan điểm cho thính chúng. Bởi thế để trở thành một người thuyết pháp nhà nghề, ngoài am tường nội đIển, tối thiểu các tăng sĩ cần rèn luyện, biết thêm ngôn ngữ và có kiến thức phổ thông. Thời Phật còn tại thế, trong số 10 đại đệ tử, Ca Chiên Diên (Katyayana) không những chỉ thông hiểu những tư tưởng triết học đương thời, am tường giáo pháp của ức Phật, mà còn có tài luận nghị khiến ai vấn nạn cũng đều thán phục. Phật và Thánh chúng phong tặng cho Ngài là bậc Luận Nghị Đệ Nhất.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:18

Các tên gọi khác

Ở miền Nam Ấn Độ nước A Bà¹n Đồ thôn Di Hầu thuộc dòng Bà La Môn, có một gia đình rất giàu sang và danh giá, được nhiều người kính nể, Ngài Ca Chiên Diên được sinh ra trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là một quốc sư đương thời, Ca Chiên Diên là họ, tên Ngài là Na Da Là, về sau Ngài rất nổi tiếng nên mọi người dùng họ để gọi thay. Ca Chiên Diên cũng có một người anh cũng thông minh tài trí theo cha học đạo Bà La Môn. Để uyên bác hơn, Ca Ca đi nhiều nơi tham học đạo lý với các Bà La Môn danh tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của Bà La Môn, Ca Ca trở về cố hương với ý định lập đàn tràng thuyết giảng Kinh Vệ Đà. Trong khi anh du học ở phương xa, ở nhà Ca Chiên Diên cũng theo cha dồi mài kinh sử, cùng lúc với anh Ca Chiên Diên cũng lập đàn tràng, đối diện với đàn của anh để thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi người chưa?

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Tôn Giả Ca Chiên Diên Katyayana – luận Nghị Đệ Nhất

I.Giới thiệu chung

Ca Chiên Diên là con của một vị quốc sư của nước A Bàn Đề (Avanti) thuộc miền Nam nước Ấn Độ. Tên của Ngài là Na La Đà còn Ca Chiên Diên là họ của Ngài. Ngài là con thứ hai của vị quốc sư và về sau vì quá nổi tiếng nên mọi người dùng họ để gọi tên Ngài. Vì cha là quốc sư, nên gia đình rất giàu có, kẻ ăn người ở cả trăm và ruộng vườn thì cò bay thẳng cánh. Nhưng cha mẹ Ngài lại là những người nhân đức, thương kẻ khốn cùng.

II.Thông tin tổng quát

  1.Tên gọi

  2.Thông tin cá nhân

Ở miền Nam Ấn Độ nước A Bà¹n Đồ thôn Di Hầu thuộc dòng Bà La Môn, có một gia đình rất giàu sang và danh giá, được nhiều người kính nể, Ngài Ca Chiên Diên được sinh ra trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là một quốc sư đương thời, Ca Chiên Diên là họ, tên Ngài là Na Da Là, về sau Ngài rất nổi tiếng nên mọi người dùng họ để gọi thay. Ca Chiên Diên cũng có một người anh cũng thông minh tài trí theo cha học đạo Bà La Môn. Để uyên bác hơn, Ca Ca đi nhiều nơi tham học đạo lý với các Bà La Môn danh tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của Bà La Môn, Ca Ca trở về cố hương với ý định lập đàn tràng thuyết giảng Kinh Vệ Đà. Trong khi anh du học ở phương xa, ở nhà Ca Chiên Diên cũng theo cha dồi mài kinh sử, cùng lúc với anh Ca Chiên Diên cũng lập đàn tràng, đối diện với đàn của anh để thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi người chưa?

   3.Lần đầu gặp Phật

   4.Thời gian xuất gia

   5.Vai trò

   6.Chứng đắc

 

III.Thông tin chi tiết

    1.Cuộc đời

Trong gia đình Ca Chiên Diên có người anh trai rất anh tuấn và hào hoa. Vì là anh lớn, được cha mẹ cho đi du học khắp nơi, thọ giáo với rất nhiều minh sư Bà La Môn nên rất thông đạt nhiều thứ học thuật. Sau thời gian du học, thì người anh trở về cố hương, tuyên bố diễn thuyết những điều nhận thức của mình về triết lý Vệ Đà tối cao. Trong khi ấy, Ca Chiên Diên chưa hề bước ra khỏi cửa, nhưng biết anh mình lập diễn đàn để thuyết pháp thì cũng lập một diễn đàn đối diện với người anh. Mặc dù không đi học, nhưng Ngài diễn thuyết rất hay, thuyết minh rõ ràng những chỗ quan trọng trong kinh Vệ Đà làm thu hút tất cả thính chúng của ông anh mình. Ông anh vốn háo thắng nên sanh lòng tật đố. Từ đó anh em bất hòa, gây gổ ồn ào trước mặt phụ thân. Người anh cằn nhằn với cha rằng:

- Thưa cha! Xin cha trừng trị em con, Nó vô phép vô tắc làm mất mặt con. Con đã du học nhiều năm, vậy mà khi con đang diễn thuyết thì nó cũng đăng đàn đối diện và đoạt hết thính giả của con. Tức thật, con mà lại thua nó hay sao?

Thiếu niên Ca Chiên Diên điềm nhiên chậm rãi giải thích:

- Xin cha lượng xét. Học vấn là chuyện công khai, ai cũng có quyền nghiên cứu và diễn giảng. Tuy anh con đi du học nước ngoài, còn con ở nhà nghiên cứu, nên con muốn biết khả năng nghiên cứu của mình tới đâu chớ không có ý hơn thua với anh con đâu. Xin cha đừng bận tâm.

Phụ thân tuy là quốc sư nhưng khi nghe hai quý tử bàn cãi cũng không biết phân xử ra sao. Rốt cuộc, ông bàn với phu nhân và họ quyết định đem gởi Ca Chiên Diên đi học đạo với tiên A Tư Đà ở núi Tân Đà, gần thành Ưu Thiền Na Di thuộc về phương Nam.

Tiên A Tư Đà chính là cậu ruột của Ca Chiên Diên và là anh của mẫu thân Ngài. Ông là vị tiên nhân thần thông bác học của Ấn độ lúc bấy giờ. Nhắc lại, khi Đức Thế Tôn đản sanh làm Thái Tử tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ thì tiên A Tư Đà được chư thiên mách bảo, liền xuống núi đến kinh thành mà xem tướng cho Thái Tử. Thấy Thái Tử có 32 tướng tốt, Ngài nói vua Tịnh Phạn rằng:

Tâu Đại Vương! Thái Tử có 32 tướng tốt nên sau nầy sẽ trở thành một vị Thánh. Thật đáng tiếc cho tôi đã già quá rồi, không thể lãnh hội được từ vị Thánh nầy. Tuy tôi không thể lãnh thọ giáo lý của Ngài, nhưng tôi sẽ dạy đệ tử tôi theo Ngài học đạo.

Nói xong, ông rơi nước mắt và lui ra.

Từ khi Ca Chiên Diên bị cha mẹ gởi đến đây thì rất được tiên A Tư Đà yêu mến. Ông đem hết sở học của mình truyền dạy lại cho đứa cháu thông minh. Vì tính thông minh sẵn có cộng thêm sự chuyên cần học đạo, Ca Chiên Diên chẳng bao lâu đạt được cả tứ thiền và năm món thần thông.

Từ đó, Ca Chiên Diên không còn nghĩ nhớ đến gia đình nữa. Lý do là Ngài không muốn bám vào ảnh hưởng của thân phụ và càng không muốn tranh giành với ông anh háo thắng. Ngài quyết định sống riêng thế giới của mình nên từ chối lời cha mẹ muốn đón Ngài trở lại cố hương.

Một hôm, tiên A Tư Đà biết Ca Chiên Diên không bị tình thương gia đình ràng buộc nên rất vui mà bảo Ca Chiên Diên:

- Ca Chiên Diên! Như chí nguyện của con bây giờ thì mai sau con sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại, nhưng con phải gặp minh sư mới được. Kiến thức của ta, hiện tại không đủ cho con cầu học. Đức đại thánh Phật Đà đã xuất thế, con hãy đợi sau khi Ngài thành đạo thì mau mau theo học với Ngài.

Ca Chiên Diên nghe lời thầy dạy, bán tín bán nghi. Nhưng tin chắc một điều là sau nầy sẽ trở thành một vĩ nhân.

Ngày nọ, tiên A Tư Đà dắt Ca Chiên Diên xuống núi đến vườn Lộc Uyển thuộc nước Ba La Nại. Tại đây ông cho xây cất một ngôi tịnh thất và an trụ luôn ở đó. Tịnh thất hoàn thành, tiên A Tư Đà bảo Ca Chiên Diên mỗi ngày cầu ba lần cho đức đại giác Phật Đà mau đến ngày chứng quả. Tiên A Tư Đà lại bảo cháu:

- Ca Chiên Diên! Theo sự dự đoán khi ta gieo quẻ thì Đức Phật chẳng bao lâu nữa sẽ thành đạo. Sau đó nhất định sẽ đến vườn Lộc Uyển mà quay bánh xe pháp đầu tiên. Ta chỉ biết được như thế còn Đức Phật giác ngộ chân lý gì thì ta không có phước để biết điều ấy. Con nên nhớ kỹ điều này, khi Đức Phật thành đạo rồi con phải mau mau đi tìm Ngài để cầu đạo và tu học.

Ít lâu sau, tiên A Tư Đà chấm dứt thọ mạng từ giã cõi đời. Ca Chiên Diên không còn thầy, kể từ đó Ngài tự phát huy học vấn và tài năng. Vì thấy quần chúng trọng vọng nên Ngài thay tâm đổi tính, thay vì nghe lời di ngôn của cậu mình là đi tìm Phật để học đạo, thì Ngài bị danh văn lợi dưỡng làm mờ đi lý trí.

Ca chiên Diên tự cho mình đã đắc đạo, rất xứng đáng cho người đời tôn kính, nên không cần mong đợi Đức Phật xuất thế làm gì. Thật đáng buồn, vị thầy vừa qua đời không lâu mà ông chẳng còn mỗi ngày cầu ba lần để sớm gặp được Phật.

Một thời gian sau, gần thành Ba La Nại, có người đào bới được nhiều di tích của một cổ thành mấy ngàn năm trước. Đặc biệt trong ấy có một tấm bia đá trên mặt khắc một lối chữ mà chẳng ai biết là thứ chữ gì. Có người thì đoán là một bài kệ, nhưng không ai có thể đọc được. Thiên hạ lại đồn rằng, ai mà đọc được tấm bia đá đó thì chắc chắn vị đó là một bậc đại giác vậy.

Một hôm, quốc vương Ba La Nại bảo các đại thần:

- Nước chúng ta được một số bảo vật lưu truyền từ cổ đại, trong đó có tấm bia đá ghi kệ văn. Vậy các người phải mau mau tìm hiểu cho ta, nếu không các nước lân cận sẽ cười nước chúng ta không có người trí. Nội trong bảy ngày, nếu như không ai hiểu được bài kệ ấy ta sẽ cách chức các khanh.

Mệnh lệnh của nhà vua tuy thật nghiêm khắc, nhưng các đại thần từ xưa đến giờ chưa từng thấy thứ chữ nầy. Người nầy nhìn người kia lắc đầu. Sau cùng họ dâng kiến nghị lên nhà vua, xin treo bảng thông báo cho toàn quốc, nếu ai đọc được bài kệ trên tấm bia sẽ được trọng thưởng mỹ nữ và tài vật châu báu.

Yết thị nhà vua nêu ra thì tin tức đã bay đến Ca Chiên Diên. Ngày xưa tiên A Tư Đà đã từng dạy cho Ngài nhiều thứ chữ trên mọi quốc gia cùng với những thứ chữ của chư Thiên cho nên Ngài rất tự tin có thể đọc được.

Quả thật Ca Chiên Diên đọc được toàn bộ bài kệ. Đây chính là thứ văn tự của Phạm Thiên và người không có thần thông thì không cách nào thấu rõ được. Ý bài kệ như thế nầy:

Ai là vua trong các vị vua?

Ai là thánh trong các bậc thánh?

Thế nào là người ngu?

Thế nào là bậc trí?

Làm sao để lìa phiền não?

Làm sao để đạt được Niết Bàn?

Ai là kẻ chìm trong biển sanh tử?

Ai là người tiêu diêu noi cõi nước giải thoát?

Lâu nay không một ai đọc được bài kệ thần bí nầy, nay Ca Chiên Diên đã vén tấm màn bí mật lên và tin nầy lan ra khắp nơi. Có một điều tấn thối lưỡng nan là mặc dầu Ca Chiên Diên có thể đọc được bài kệ, nhưng chính Ngài cũng không giải đáp được ý nghĩa của nó được. Nhà vua tuy công nhận sức bác học của Ca Chiên Diên, nhưng không hiểu ý nghĩa của bài kệ thì chẳng ích lợi gì. Do đó, nhà vua lại treo giải thưởng để yêu cầu các học giả trong thiên hạ đến khai thông vấn đề.

Ca Chiên Diên không chịu thua, Ngài hứa với nhà vua nội trong bảy ngày sẽ trở lại giải đáp ý nghĩa bài kệ nầy.



Phải Cầu Đức Phật

Từ khi hứa chắc với nhà vua, Ca Chiên Diên trở về nhà sưu tầm, khảo cứu và dùng tất cả thần thông thiên biến vạn hóa mà cũng chẳng hiểu được. Đến lúc không còn biện pháp gì nữa thì Ngài phải đi cầu cứu người khác. Ban đầu, Ngài tìm đến chỗ của Phú Lâu Na và Đại Ca Diếp để thỉnh giáo, nhưng ý kiến của họ chỉ rất thô thiển, không thỏa mãn được sở nguyện của Ngài. Ngài thất chí bèn tìm đến nhóm lục sư ngoại đạo để học hỏi thì họ cũng chẳng hơn gì.

Cùng đường hết lối, Ca Chiên Diên bắt buộc phải nghĩ đến Phật Đà. Nhưng càng nghĩ đến Phật thì Ngài lại càng không muốn đi thỉnh giáo. Ngài thầm nghĩ bài kệ với lời văn từ cõi trời mà các đại lão Bà La Môn trưởng thượng, uy quyền một cõi mà còn không biết, huống chi Đức Phật tuổi còn trẻ thì làm sao mà biết được. Lời nhắn nhủ của tiên A Từ Đà căn dặn trước khi ông chết là phải tìm đến Đức Phật để thọ giáo thì ngày sau Ngài mới thành một vĩ nhân đã làm cho Ngài tỉnh ngộ mà nhận định rằng ngộ đạo không thể căn cứ trên tuổi tác lớn nhỏ mà quyết định. Nghĩ như thế nên Ngài nhắm hướng vườn Lộc Uyển mà đi tới.

Lần đầu tiên bái kiến Đức Phật, Ca Chiên Diên mới biết lời nói của cậu mình quả không sai. Mặc dầu chưa biết được trí tuệ bao la vô cùng vô tận của Phật như thế nào, nhưng chỉ mới thấy tướng tốt trang nghiêm của Thê Tôn cũng đã khởi lòng cung kính vô biên.

Ca Chiên Diên chắp tay, tụng qua bài kệ một lần và cầu mong Đức Phật giải đáp cho.

Đức Phật chẳng cần suy nghĩ mà dùng kệ đáp lại rằng:

Vua trong các vua là vua cõi trời thứ sáu.

Thánh trong các thánh là Đức Phật đại giác.

Bị vô minh ô nhiễm gọi là kẻ ngu.

Hay diệt hết phiền não là bậc trí.

Tu đạo, trừ tham, sân, si tức là lìa tội lỗi.

Hoàn thành giới, định, tuệ là chứng Niết Bàn.

Người chấp trước nơi ngã pháp chìm trong biển sanh tử.

Ca Chiên Diên rất thông minh nên vừa nghe Phật đáp xong thì mỗi câu mỗi lời đều thâm nhập vào trong tâm và mối nghi ngờ ám ảnh bao lâu nay tự tan biến như những làn khói lam chiều để nhường lại cho ánh sáng của trí tuệ. Ngài rất vui mừng và lặng đi mà không nói được nên lời. Mối cảm kích của Ngài đối với Đức Phật chẳng có gì là lạ, vì trên đời nầy ngoài Đức Phật ra thì không còn ai được xem như là Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ngài chậm rãi tụng lại bài kệ của Phật và hướng về phía Thế Tôn đảnh lễ để tỏ lòng tôn kính của mình.

Ca Chiên Diên cáo từ Đức Phật trở về thuật lại cho nhà vua nghe và sau đó tuyên bố với các tín đồ của mình là từ đây Ngài sẽ quy y theo Phật để làm đệ tử của vị đại thánh nầy.



Xưng Niệm Tam Bảo

Với tư chất thông minh sẵn có, lại được dịp nghe lời vàng ngọc của Đức Thế tôn, nên chẳng bao lâu Ngài được khai ngộ và chứng quả trong tăng đoàn. Ca Chiên Diên rất vui mừng, chẳng những tự mình từ đây được cứu độ mà còn làm cho cậu mình là tiên A Tư Đà được ngậm cười nơi chín suối.

Ca Chiên Diên vốn là một nhân vật phi phàm, huống chi hiện nay đã theo Phật xuất gia và chứng quả A La Hán.

Tôn giả Ca Chiên Diên thông đạt rất nhiều kinh luận ngoại đạo và có rất nhiều bằng hữu ngoại đạo. Vì thế sau khi ngộ đạo thì Ngài phát nguyện sẽ cảm hóa những người bạn tu còn đang lạc hướng trên đường mê nẻo vọng và mỗi mỗi đưa họ về quy y theo Phật để lãnh thọ giáo lý của Thế Tôn. Do đó, tôn giả ở trong tăng đoàn không những nhiệt tâm phục vụ và tu hành, mà đối với bên ngoài lại cũng nhiệt tâm hoằng sanh lợi pháp. Lời Đức Phật nhắn nhủ với chúng tăng là người hay hoằng đạo chẳng phải đạo hoằng người, luôn luôn là sức phát động để giúp tôn giả đi sâu vào lòng người mà hoàn thành Phật sự.

Chân lý cứu đời của Đức Phật thì trường tồn bất biến dù trải qua ngàn năm vạn kiếp. Do đó, Ca Chiên Diên càng tuyên dương Phật pháp thì đạo tâm càng sung mãn. Đối với Ngài, làm sứ giả của Đức Phật là một vinh hạnh lớn vì thế lòng tin và sự nhiệt thành của tôn giả đã biến đại danh Ca Chiên Diên bay xa như hương hoa thơm ngát làm cho ai ai cũng quý mến và kính phục.

Một hôm, Đức Phật trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ để giáo hóa chúng sinh thì tôn giả cũng theo Phật. Tôn giả ngụ tại tịnh xá trong làng Ha Lợi và tất cả dân làng trong làng nầy đều kính nhớ công đức giáo hóa của Ngài. Ngày nọ, có trưởng giả Bát Thành bị bệnh. Tôn giả nghe tin đến thăm và đặc biệt thuyết pháp cho ông nghe để giải trừ bệnh khổ.

Ca Chiên Diên bước vào nhà trưởng giả, thấy ông còn nằm trên giường bệnh, bèn đến bên thăm hỏi:

- Này trưởng giả! Nghe tin ông có chút bịnh, tôi vâng lời Đức Phật đến đây an ủi ông. Ông có chạy chữa thầy thuốc gì không?

Trưởng giả rất cảm thương mà nói:

- Kính tạ ân Đức Phật và tôn giả. Bệnh của con không còn hy vọng vì bao nhiêu thầy đều nói con mang bịnh bất trị.

Tôn giả an ủi:

- Ông hãy xưng niệm Tam Bảo để nương nhờ oai đức Tam Bảo khiến tâm ông được thanh tịnh và bệnh tình cũng thuyên giảm đi.

Vị trưởng lão hỏi lại:

- Bạch tôn giả! Chúng con quy y Tam Bảo là mong ủng hộ Tam Bảo để tịnh hóa nhân gian. Chúng con đã hiến dâng tất cả tài vật của chính mình thì không nên trở lại cầu mong nơi Tam Bảo.

Ca Chiên Diên khuyên:

- Thật ra là như vậy, thế gian vô thường không thể cầu xin Tam Bảo cho được bình an và thân thể bịnh hoạn không thể cầu xin Tam Bảo cho được lành mạnh. Tín ngưỡng là hy sinh cá nhân nhỏ hẹp để thành tựu đại ngã. Chúng sinh có chút ít bệnh khổ thì chúng tôi có thể đến thuyết pháp không cần phiền đến Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu sức người không có cách gì giải cứu, thì thành tâm cầu nguyện Tam Bảo để được từ quang phó chiếu là việc làm tốt chẳng có lỗi chi.

Trưởng giả Bát Thành nghe nói như thế thì mỗi ngày đều một lòng nhất tâm xưng niệm Tam Bảo và căn bịnh bất trị của ông dần dần thuyên giảm. Tuy Phật pháp rộng lớn vô biên, nhưng tôn giả đã vì chúng sinh mà dùng nước cam lồ từ bi của Phật pháp để trị liệu cho những nỗi khổ của chúng sanh.



Tinh Thần Bình Đẳng

Cũng giống như tấtcả những đại đệ tử của Phật, Ca Chiên Diên có khi thì tu học bên Đức Phật và có khi thì đi vân du giáo hóa khắp mọi nơi. Nhưng phương pháp giáo hóa của Ca Chiên Diên thì có chỗ khác biệt với tôn giả Phú Lâu Na. Phú Lâu Na thì thuyết pháp thường là tập hợp ngàn vạn thính chúng đến nghe, còn tôn giả Ca Chiên Diên thì thích thuyết pháp từng người. 

Từng người, từng người một đối diện mà giảng dạy là lối thuyết pháp thân thiết nhất làm cho chân lý dễ dàng thâm nhập trong tâm người nghe. Quả thật như vậy, bất cứ là ai mà chỉ cần nghe tôn giả nói vài câu liền có ấn tượng tốt và niềm tin nơi lời nói của tôn giả.

Một hôm, Phật đang thuyết pháp tại tịnh xá Kỳ Viên, Ca Chiên Diên với ba y một bát, một mình băng qua rừng núi và xuyên qua những cánh đồng mênh mông đến nước Ma Thâu La (Mathura) ở phía Tây để giaó hóa. Khi mới đến, trước tiên tôn giả xem xét dân tình, phong tục địa phương và lề lối sinh hoạt tập quán của nước nầy trước khi vào bệ kiến quốc vương.

Vua nước Ma Thâu La khi thấy tôn giả bèn hỏi:

- Tôn giả! Tôi nghe nói Ngài vốn dòng dõi Bà La Môn, đó là một chủng tộc cao quý nhất. Còn Phật Đà thuộc dòng Sát Đế Lợi, mà nay Ngài trở lại quy y, làm đệ tử ông ta. Thật chẳng tai hại lắm sao?

Ca Chiên Diên thông dung đáp lại rằng: Đại vương! Chuyện đó chẳng những không tai hại gì hết, mà trái lại tôi cảm thấy rất hân hạnh được làm đệ tử bậc đại thánh Phật Đà.

Nhà vua thắc mắc thêm:

- Lạ thật! Từ bỏ dòng dõi thanh tịnh để làm đệ tử một người dòng Sát Đế Lợi. Thật là không thể nào hiểu nổi.

Tôn giả chẳng hề giận, ôn hòa giải thích cho nhá vua nghe:

- Này Đại vương! Ngày xưa tôi là Bà La Môn, tôi cũng nghĩ như Đại vương. Nhưng sau khi nghe Phật Đà giáo thị, tôi mớI biết đó là nhận thức sai lầm. Trong xã hội chia ra giai cấp Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá và Thủ Đà La. Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa tôn giáo, chánh trị, thương nghiệp, nông công và mọi tầng lớp khác trong lối sinh hoạt của xã hội. Nhưng Đại vương thử nghĩ lại thì bất cứ người trong dòng dõi nào cũng có kẻ thiện người ác. Hiện tại trong chủng tộc Bà La Môn, rất nhiều người làm nhiều điều ác như sát sinh, tà dâm, tà kiến mà cho rằng họ là những người tôn quý hay sao? Người tôn quý hay hạ tiện không phải do dòng họ mà phải là người có tu đạo làm lành để giác ngộ và chứng thánh quả. Chính họ mới là những bậc tôn quý và đáng kính trọng.

Nghe xong, nhà vua chợt giác ngộ và tự nói:

- À! Thì ra đó là lỗi của ta. Trong đất nước nầy, nhà tù chỉ nhốt toàn chủng tộc Thủ Đà La, còn giới Bà La Môn phạm pháp thì không sao cả. Hèn gì xã hội hỗn loạn, nhân tình ta thán bất bình.

Tôn giả biết nhà vua thấy được chỗ sai lầm và thật tâm hối lỗi bèn nói tiếp:

- Đại vương! Đại vương cần tin nơi chánh pháp. Đức Phật là bậc đại giác ngộ và là bậc tối tôn quý trong loài người. Ngài nên quy y để làm đệ tử Phật mà tìm sự giải thoát tự do cho sinh mệnh của mình. Đó mới chính thật là hạnh phúc và vinh dự tối cao trong đời nầy.

Nhà vua được tiếp thọ Phật pháp bình đẳng, bèn yêu cầu tôn giả giới thiệu để quy y Phật. Sau đó, nhà vua ra lịnh đại xá, thả hết tù nhân dòng Thủ Đà La, chỉnh đốn lại chính trị, không còn nể mạnh ép yếu, bỏ luôn luật pháp bất công, không phân biệt giai cấp giữa người và người và ai ai cũng chịu một quốc pháp như nhau. Từ đây khắp nơi vui mừng, nhân dân sống trong an cư lạc nghiệp và mọi người đều cảm kích sự giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên cùng cảm kích Phật pháp từ bi, bình đẳng.





Luận Về Đạo Đức Và Tuổi Tác

Tôn giả Ca Chiên Diên từ khi theo Đức Phật thì lúc nào cũng chủ trương “bình đẳng” giữa bốn chủng tộc để cùng nhau sống trong hòa bình và an lạc. Nhưng đây là điều đố kỵ đối với bọn Bà La Môn ngoại đạo. Họ tìm mọi cách để diệt trừ Ca Chiên Diên vì nếu không thì các Bà La Môn từ nay không cất đầu lên nổi. Tuy nhiên tôn giả Ca Chiên Diên rất nổi tiếng về tài biện luận cho dù kẻ đó là Bà La Môn quyền uy đến đâu mà mỗi khi gặp tôn giả thì Ngài chỉ dùng vài lời ngắn gọn đủ làm cho họ vui lòng khâm phục.

Một hôm, tôn giả đang cùng với các tỳ kheo thọ thực trong trai đường ở một tịnh xá nằm ở bên ao Ô Nê thuộc nước Ba La Nại. Lúc đó, có một người Bà La Môn, niên kỷ thuộc hàng trưởng thượng, biết tôn giả đang ở đây liền đến khiêu chiến. Lão Bà La Môn chống gậy, làm thinh đứng bên cạnh Ca Chiên Diên mà nghĩ rằng Ca Chiên Diên thấy mình già cả đến thì chắc chắn sẽ đứng dậy nhường chỗ ngồi. Nhưng Ca Chiên Diên chẳng thèm nhìn đến ông làm ông ta nổi giận và lớn tiếng trách:

- Các người là giống người gì? Đối với người già cả như ta tại sao không đứng dậy nhường ghế ngồi hả?

Các tỳ kheo một phen thất kinh, có vài vị đứng lên định nhường chỗ cho Bà La Môn ngồi. Chỉ có Ca Chiên Diên chẳng nao núng chút nào mà nói với ông lão nọ:

- Ông là người nào mà đến đây lớn tiếng ầm ỹ? Chúng ta có phép cung kính của chúng ta, nhưng mà ở đây không có ai là trưởng thượng hay tiền bối cả.

Lão đạo sĩ Bà La Môn nổi giận, quơ gậy chỉ vào cái đầu bạc của mình với nộ khí xung thiên mà la lên:

- Già như lão đây không phải là trưởng thượng hả? Ta đây không đáng cho mấy người cung kính hả?

Ca Chiên Diên nói một cách khi dễ:

- Ông à! Ông không đáng gọi là lão già cũng không đáng thọ sự cung kính của chúng ta.

Lão già ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao ngươi khinh người quá vậy?

Lão Bà La Môn nổi trận lôi đình lấy cây gậy chỉ trỏ Ca Chiên Diên. Còn Ca Chiên Diên thì ngược lại, Ngài rất bình tĩnh và từ tốn nói:

- Tôi thấy cử chỉ và lời nói của ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta kính trọng. Đừng kể là Bà La Môn, cho dù là tám, chín chục tuổi, tóc bạc răng rụng mà không chân chính tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được phiền não và tham, sân, si, tật đố thì người đó chỉ đáng gọi là thiếu niên. Ông hãy nhìn, như những người tuổi trẻ hai mươi quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã thoát khỏi sự ràng buộc của ái dục. Không còn tham cầu nơi thế gian, không có chút xíu ý niệm bất bình sân hận, Nếu được như vậy thì mới xứng đáng cho chúng ta gọi là bậc trưởng thượng, là bậc lão túc và đáng được tất cả chúng ta cung kính.

Lão Bà La Môn nghe nói xong, chẳng biết trả lời lại thế nào đành làm thinh đi ra.

Thuyết phục một Bà La Môn râu bạc thì tiếng tăm của tôn giả càng lớn, nhưng tôn giáo Bà la Môn càng không thể tha thứ về việc xúc phạm nầy của tôn giả.

Một ngày nọ, có một vị Bà La Môn khác, rất giỏi biện luận. Vì bất bình về việc tôn giả Ca Chiên Diên đối xử với lão Bà La Môn ngày nọ nên từ xứ Câu Thi Ni La ở phía Bắc xa xôi mà hỏi thăm tìm đến chỗ của Ca Chiên Diên tại thành Ba La Nại. Vừa chạm mặt, ông đã kêu đích danh tôn giả mà hỏi:

- Ca chiên Diên! Tôi nghe người ta nói Ca Chiên Diên là gốc Bà La Môn mà nay cải giáo làm sa môn, có phải vậy không?

Tôn giả đáp:

- Đúng vậy, ông xem tôi đang đắp y cà sa đây.

Ông Bà La Môn hỏi:

- Người phản bội tín ngưỡng của mình thì lỗi ít hay nhiều?

Ca Chiên Diên trả lời đanh thép:

- Từ cái tín ngưỡng tà chấp kia mà đi theo đạo lý quang minh chánh tín nầy thì không có lỗi gì cả.

Ông Bà La Môn tức giận nói thêm:

- Ông chẳng phải là người vô danh tiểu tốt. Ông đã từng nghiên cứu tinh thâm pháp điển Mã Nổ của Bà La Môn chúng ta. Việc ông cải giáo theo Phật thì chưa thể bỏ qua mà còn nghe đồn ông hay giảng thuyết Phật pháp cho các Bà La Môn để rủ rê họ theo mình. Hành động ấy thật là vô lễ.

Ca Chiên Diên từ tốn đáp lại:

- Người đã đi qua thì nên chỉ lại cho bạn đồng hành ngày xưa những chỗ lầm lạc. Đó là lời dạy từ bi của Đức phật.

Ông Bà La Môn yếu thế, nhưng chưa chịu thua bèn hỏi lại:

- Ca Chiên Diên! Tôi lại hỏi ông điều nầy. Nghe nói Ca Chiên Diên làm sa môn tỳ kheo đã không cung kính trưởng lão Bà La Môn, chẳng những đã không đứng dậy đón tiếp mà cũng chẳng mời ngồi, thử hỏi đã là tỳ kheo sao lại vô lễ như thế?

Ca Chiên Diên thẳng thắn và chậm rãi đáp:

- Ông hỏỉ rất đúng. Ca Chiên Diên tôi từ khi quy y với bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Phật Đà, quả thật không cung kính phụng sự trưởng lão Bà La Môn. Điều đó cũng hợp lý thôi. Bởi vì tôi nay đã chứng được thánh quả thì ông đừng đem tuổi tác già trẻ mà đến đây chất vấn. Lễ và pháp không thể lộn xộn được.

Người Bà La Môn nghe lời biện luận khéo léo của Ca Chiên Diên thì thấy hổ thẹn không nói thêm lời nào. Tôn giả cũng đem chân lý của Thế Tôn ra giáo hóa ông ta và kết quả là ông Bà La Môn quyết định từ bỏ tà chấp và yêu cầu tôn giả giới thiệu để làm đệ tử Phật.

Tôn giả thật đáng kính trọng vậy!



Tại Sao Con Người Tranh Chấp?

Một hôm, Ca Chiên Diên đang ôm bình bát khất thực trên đường thì gặp một đạo sĩ Bà La Môn đi ngược chiều. Ông ta mời tôn giả đứng lại và hỏi:

- Tôn giả! Hôm nay gặp Ngài ở đây thật là may mắn. Tôi có một vấn đề muốn thỉnh giáo, mong Ngài lấy tư cách khách quan để giải nghĩa dùm tôi.

Ca Chiên Diên từ tốn đáp lại:

- Chẳng có chi. Ông nghi hoặc điều gì?

Đạo sĩ thắc mắc:

- Tôn giả! Tôi thấy trên thế gian, dòng Sát Đế Lợi thì tranh đấu với Sát Đế Lợi, còn Bà La Môn thì tranh đấu với Bà La môn. Vì lý do gì mà họ cứ tranh đấu mãi như vậy?

Ca Chiên Diên đáp:

- Vì tham dục mê hoặc.

Đạo sĩ lại hỏi:

- Thưa tôn giả! vậy chớ tỳ kheo các Ngài tranh cãi nhau là do lý do gì?

- Là do ngã kiến và pháp chấp, tôn giả trả lời.

Vị đạo sĩ Bà La Môn nhắm mắt lại, đưa tay vò đầu, dường như cố sức suy nghĩ về lời giải đáp của Ca Chiên Diên. Thái độ kỳ quái của ông làm cho dân chúng hai bên đường chú ý. Xưa nay, thấy tỳ kheo nói chuyện với đạo sĩ Bà La Môn đã là chuyện lạ, huống gì vị Bà La Môn này lại hành động lạ lùng như thế.

Dân chúng hai bên đường có cơ hội thưởng lãm cảnh một tỳ kheo đắp y vàng trang nghiêm tề chỉnh đàm đạo với một đạo sĩ Bà La Môn khổ hạnh râu tóc phủ khắp mình. Họ không biết hai vị nầy trao đổi câu gì, nhưng chỉ thấy vị Bà La Môn đứng nhắm mắt vò đầu lia lịa trông rất khôi hài.

Đạo sĩ Bà La Môn suy nghĩ một lát thì mở mắt ra và hỏi:

- Tôn giả! Lời Ngài nói rất công bình hợp lý, song tôi nghĩ rằng trên thế gian nầy không biết có nhân vật nào ly khai được tham dục, ngã kiến và pháp chấp không?

Ca chiên Diên chẳng chút do dự đáp ngay:

- Có lão sư của tôi là Đức phật, hiện đang thuyết pháp tại thành Xá Vệ. Ngài là bậc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài không còn phiền não, tham dục, ngã kiến và pháp chấp. Ngài là bậc đạo sư của ba cõi và là vị thầy của tất cả nhơn thiên.

Đạo sĩ Bà La Môn rất cảm kích đối vời lời thuyết pháp của Ca Chiên Diên nên ông ta liền yêu cầu tôn giả giới thiệu cho ông ta được quy y theo Phật để làm một đệ tử cư sĩ.

Dân chúng hai bên đường được một phen mục kích cảnh tôn giả thuyết phục vị đạo sĩ Bà La Môn. Họ rất hoan nghinh và rất nhiều người quỳ tại chỗ đảnh lễ tôn giả như là chúc mừng một thắng lợi lớn vậy. Tuy vậy, tôn giả chẳng lộ vẻ tự đắc mà Ngài khiêm tốn đáp lễ lại mọi người và thản nhiên tiếp tục con đường khất thực của mình.



Răn Dạy Bọn Thiếu Niên Vô Lễ

Ca Chiên Diên xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc Bà La Môn và qua lại biện luận với Bà La Môn cũng rất nhiều. Ngày xưa, tôn giả là một nhân vật cao cấp, danh vọng và địa vị trong phái Bà La Môn vì vậy khi Ngài quy y theo Phật đã làm chấn động cả một nền tín ngưỡng oai quyền nhất lúc bấy giờ.

Các giáo sĩ Bà La Môn công kích đã phá Ca Chiên Diên rất nhiều mà một số Bà La Môn khác vẫn duy trì tình bằng hữu thân thiết với Ngài cũng không ít.

Một ngày nọ, Tôn giả có dịp trở về cố hương để hoằng dương đạo pháp tại làng Di Hầu thuộc nước A Bàn Đề (Avanti). Trong làng Di Hầu có một Bà La Môn tên là Lỗ Ê Già đối với tôn giả rất cung kính tôn trọng.

Nhưng một hôm, có đám thiếu niên là con em của Lỗ Ê Già, lên núi chặt củi. Chúng đi ngang qua một hang đá thì thấy Ca Chiên Diên đang tịnh tọa bên trong liền kêu réo ồn ào rồi đem tôn giả ra làm trò đùa với nhau:

- Hãy lại đây xem chúng bay, có ông sa môn đầu trọc ở đây nè!

Một đứa nói thêm:

- Nhìn làm quái gì. Lão đầu trọc ấy chẳng có thú vị gì cả!

Đám đệ tử của Lỗ Ê Già nhao nhao mỗi người một câu la hét ngoài cửa động. Lúc ấy trong đám đó có một tên can gián rằng:

- Úy! Các bạn đừng chế nhạo người ấy, ổng là người mà thầy mình tôn kính lắm đó.

Tuy vậy bọn thiếu niên bướng bỉnh vẫn cười đùa chế nhạo ầm ĩ, thậm chí chúng còn lấy đá chọi vào hang.

Ca Chiên Diên đang tịnh tọa phải đứng dậy bước ra ngoài răn dạy bọn chúng một phen:

- Này các chú! Lúc trước các Bà La Môn tu hành đàng hoàng, cấm tuyệt ngũ dục, bây giờ thì Bà La môn cưới vợ đẻ con giống như người thế tục. Xem hành vi của các chú chẳng khác bọn trẻ nít hoang đàng vô lễ, bộ thầy các chú dạy như vậy đó hả?

Lời nói của Ca Chiên Diên oai nghiêm như sư tử làm bọn thiếu niên nép một bên, miệng chẳng dám hó hé mà lòng thì rất căm hận. Lúc về nhà, chúng bèn mách lại với Lỗ Ê Già và thêu dệt là tôn giả đã mắng chửi Bà La Môn thế nầy, thế nọ.

Lỗ Ê Già nghe xong, đùng đùng nổi giận nói rằng:

- Ta đối với Ca Chiên Diên rất tôn kính, mà ông ta trở lại mắng nhiếc chúng ta. Ta phải tìm gặp ông ta để hỏi cho ra lẽ.

Lỗ Ê Già sát khí đằng đằng tức tốc chạy đến thạch động của tôn giả để làm lớn chuyện, nhưng khi gặp Ca Chiên Diên nghiêm trang, ôn hòa thuật lại những lời của bọn trẻ và lời nói của mình cho ông nghe. Lỗ Ê Già cảm thấy xấu hổ mà cúi đầu chẳng nói nên lời.

Ca Chiên Diên nhân tiện nói tiếp:

- Này bạn Lỗ Ê Già! Ông nghe tôi nói đây, tín ngưỡng và tu tập của chúng ta là cốt để giải thoát luân hồi sanh tử và sống an vui tự tại của Niết bàn. Chúng tôi tu hành là để đoạn diệt tất cả mọi phiền não, chặt đứt mọi sợi dây vô hình của tham sân si để cho mình được tự do tự tại. Trăm ngàn lần không thể đem tín ngưỡng và việc tu hành biến thành một thứ nghề làm ăn. Hiện nay trong số các đạo sĩ Bà La Môn làm lễ cúng tế cho người đời, dường như là có ý kinh doanh. Họ lìa gia đình làm Bà La Môn để tu đạo thử hỏi có được mấy người chân chánh? Phần lớn toàn là vì danh văn lợi dưỡng, họ tự mình làm ra vẻ chí thành mà bên trong thật là giả dối. Đã không cứu độ được ai mà mang chiêu bài tôn giáo để thỏa mãn dục vọng riêng của mình thì thật là chuyện đáng buồn. Các Bà La Môn thời nay đều là ngoài tâm cầu pháp, nếu không cầu phước báo nhơn thiên thì cũng đem hiện tượng vũ trụ ra mà giải thích tới lui mà không giải thích được gì cho cuộc sống của chúng ta cả. Thử hỏi có mấy người nhận thức chân thật được cho chính mình? Thầy của tôi là đức Phật là vị đại từ, đại bi và là vị cứu tinh cho các nhà tu đạo đang lẩn quẩn trên đường tôn giáo. Ông là bằng hữu của tôi nên tôi mong rằng ông sẽ bỏ mọi điều tà chấp và đừng nên ham làm thầy thiên hạ mà chuyên tâm tu học để tự giải thoát cho chính mình.

Lỗ Ê Già nghe xong, lộ vẻ e thẹn mà nói:

- Tôn giả! Ngài nói rất đúng, giờ đây tôi sẽ nhất tâm y theo lời chỉ giáo của Ngài.

Quả thật không hổ danh đệ nhất luận nghị, tôn giả Ca Chiên Diên đã dùng lời lẽ sắc bén để bẻ gãy tất cả những tư tưởng lạc hậu của Bà La Môn và làm cho Lỗ Ê Già chỉ còn buông hết các mê vọng tà chấp mà đầu hàng để quy y theo chánh pháp của Đức Phật. 



Luận Về Thuyết Vô Thường!

Ca Chiên Diên biện tài vô ngại, nghị luận già giặn không ai sánh kịp từ trong tăng đoàn cũng như ngoài xã hội. Danh cao vòi vọi của Ngài không ai lại không biết. Đức Phật rất thích các đệ tử lỗi lạc của mình, nên mỗi khi nghe nói đến tên của tôn giả thì Ngài rất hài lòng khen ngợi.

Một hôm Đức Phật đến giáo hóa nước A Bàn Đề, cũng chính là quê hương của tôn giả, bèn bảo Ca Chiên Diên thay Ngài mà thuyết giảng đạo lý vô thường cho tứ chúng.

Ca Chiên Diên đảnh lễ trước Đức Phật, rồi sau mới nói:

- Các vị đại thiện tri thức! Tất cả mọi sự tụ hội đều có lúc ly tán, có sanh ắt có tử, có thành thì có hoại. Các pháp hữu vi trên thế gian, dù to lớn như sơn hà đại địa cũng không thoát khỏi pháp tắc vô thường. Các vị hãy nhìn xem, mùa xuân trăm hoa đua nở, chỉ một trận gió thu thổi tới liền biến thành lá vàng rơi tơi tả. Còn chúng ta, khi trẻ thì mặt đẹp sắc hồng, đến lúc già nua thì da nhăn, tóc bạc, lưng còm, gối mỏi. Cũng như giọt sương trên cành sẽ tan biến theo bóng đen khi ánh mặt trời vươn lên chiếu ra muôn ngàn tia sáng. Thân bằng quyến thuộc dầu có thương yêu đến đâu đến lúc già chết cũng không ai thay thế được. Khi người nhắm mắt xuôi tay, dầu có khóc than cách mấy cũng không níu được sự vô thường, cũng không làm cho người chết sống lại. Thật vậy, kim ngân tài bảo thì cũng chẳng tồn tại muôn đời, nay có mai không. Ngay cả đến quyền uy danh vọng thì cũng như bọt biển mà thôi bởi vì trên thế gian nầy đâu có vương hầu nào mà không từng bị lật đổ. Triều đại nầy tan thì triều đại mới thay thế. Hiểu rõ lý vô thường thì không bị màu sắc rối ren của thế gian lừa dối. Nầy là thiên nhiên, núi xanh sông biếc. Đó là loài người, mạnh khỏe khôn ngoan. Đây là xã hội với giàu sang sung sướng. Tất cả chỉ là cạm bẫy để hại người vì tự nó đã chứa sẵn tính vô thường giả dối. Vì thế, thưa các vị đại thiện tri thức, chỉ có chân lý nhân quả và nghiệp lực mà mỗi người tạo tác là không hư dối, chân thật. Nhân quả theo nghiệp lực như bóng với hình cho dù con người còn sống hay chết. Chúng ta cần phải nỗ lực khẩn thiết tu tập để phá tan thế giới vô thường và chứng được thánh quả để thoát ra khỏi vòng sanh tử triền miên.

Lời chỉ dạy của tôn giả, nghĩa lý phân minh làm cảm động tất cả tứ chúng trong hội. Khi thay Phật thuyết pháp thì chỉ có Ca Chiên Diên với biện tài nghị luận đã làm nổi bật chân lý của Đức Thế Tôn và làm cho đạo Phật được ngời sáng muôn đời.

Thuyết Đạo Lý Phát Tài Cho Kẻ Nghèo

Sau chuyến hoằng pháp tại nước A Bàn Đề, tôn giả trở về nước Xá Vệ để nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp. Trên đường đi, tôn giả gặp một phụ nữ trong tay cầm một bình nước và đang ngồi khóc thảm thiết bên mé sông. Thấy hành động muốn nhảy xuống sông để tự vận, tôn giả động lòng từ bi đến trước cô ta và hỏi:

- Này cô! Chuyện gì khiến cô buồn thảm mà ngồi đây khóc lóc vậy?

Cô gái khóc lớn mà nói:

- Chẳng việc gì đến ông, nói với ông làm quái gì?

Tôn giả từ tốn hỏi lại:

- Này cô! Cứ nói cho tôi nghe, tôi là đệ tử Phật thì tôi có thể giúp cô giải quyết vấn đề được chớ.

Cô gái bực tức mà nói rằng:

- Ông mà làm được cái gì. Ông coi trên đời nầy thật không công bằng gì cả. Sự giàu nghèo khác nhau như trời với vực. Như tôi là một kẻ nghèo đói suốt đời khổ sở và cái khổ bần cùng đó đeo đuổi làm cho tôi không còn ham sống nữa. 

Cô gái nói xong, thì lăm le muốn nhảy xuống nước. Ca Chiên Diên vội kéo cô ta lại và từ bi giảng giải:

- Này cô! Đừng buồn thảm như vậy vì trên đời nầy có biết bao nhiêu người nghèo chớ đâu phải chỉ mình cô. Vả lại, nghèo cũng không hẵn là bất hạnh, là khổ sở. Còn kẻ giàu chưa chắc là hạnh phúc. Cô coi mấy người phú hộ lắm của nhiều tiền kia, hằng ngày cứ bị tham dục, sân hận và si mê quấy rối khổ sở. Càng giàu thì họ càng muốn giàu thêm, có cái nầy thì họ khao khát được thêm cái khác. Mà hễ giàu sang thì có nhiều cơ hội để làm nhiều điều bất thiện, đó là chưa kể hại người để lợi cho mình, giết hại cầm thú để nhậu nhẹt ăn chơi và đối xử tàn nhẫn đối với người nghèo khổ. Tất cả những điều bất thiện nầy sẽ đọa họ vào ba đường khổ kiếp sau. Đó là ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục thì cái khổ của họ kiếp sau so với cái khổ của cô ngày nay có sá gì mà cô khóc than.

Nghe xong thì cô gái vẫn vùng vằng la lối:

- Ông là sa môn, ông không cần đến tình đời, còn tôi đâu có được. Ông phải biết tôi là đầy tớ cho một nhà phú hộ. Suốt đời làm kẻ tôi đòi, cơm áo không đủ, chẳng có tự do mà gặp chủ nhân hắc ám, tham lam hung dữ, chẳng có chút xíu từ tâm. Chúng tôi làm công chuyện nhà hễ sai một chút là lãnh đòn, nghe chửi. Muốn sống không yên mà muốn chết cũng chẳng được. Nghĩ đến nỗi cùng cực đó đều do kiếp nghèo mà ra, biểu sao tôi không buồn không khổ.

Tôn giả an ủi:

- Cô à! Tuy như vậy, cô cũng đừng bi quan. Tôi sẽ chỉ cho cô một cách phát tài và thoát khỏi nghèo khổ.

Cô ta quẹt nước mắt, tia mắt lóe niềm hy vọng mà hỏi:

- Cách gì vậy ông?

Tôn giả giải thích:

- Ồ! cách nầy rất đơn giản, cô đã bị bần cùng làm khổ thì cô cứ đem cái bần cùng đó bán quách cho người khác đi.

Cô gái nheo mắt rất đỗi ngạc nhiên la lên:

- Bần cùng mà bán cho ai? Ông đừng nói giỡn, bần cùng mà đem bán được thì trên cõi đời nầy không còn người nghèo. Có ai mà chịu mua cái nghèo bao giờ?

Ca Chiên Diên trả lời:

- Bán cho tôi, tôi chịu mua.

Cô gái thắc mắc hỏi thêm:

- Bần cùng có thể bán được mà cũng là ông mua, nhưng ở đời nầy biết cách bán nó ra sao?

Tôn giả khi thị tiếp:

- Hãy bố thí. Cô nên biết sự giàu nghèo ở đời đều có nhân duyên. Người nghèo sở dĩ nghèo hoài là vì đời trước không chịu bố thí và tu phước. Người giàu sở dĩ giàu sang sung sướng là vì đời trước họ đã bố thí và tu phước. Vì vậy bố thí, tu phước là cách bán nghèo mua giàu tốt nhất đó.

Người tỳ nữ nghe xong thì trí tuệ được khai thông vì mãi đến hôm nay cô mới biết cách làm giàu. Nhưng cô lại đau khổ mà nói rằng:

- Thưa tôn giả! Ngài dạy rất đúng, con đã biết cách để được phát tài. Nhưng con nghèo quá mức không có chút gì cả, ngay cả cái bình nước trong tay con cũng là của chủ nhà. Họ giữ của còn hơn con giữ mạng sống thì Ngài bảo con bố thí cái gì bây giờ?

Ca Chiên Diên đưa bình bát ra và nói cho cô gái:

- Bố thí không cần phải là tiền bạc. Thấy người khác bố thí mà mình phát tâm vui vẻ là được. Cô hãy múc nước đổ đầy bát cho tôi, đó là cô đã bố thí rồi!

Người tỳ nữ liền hiểu rõ ý nghĩa của sự bố thí, liền làm theo lời dạy. Về sau nhờ công đức cúng nước cho tôn giả, cô được sanh lên cõi trời Đạo Lợi. 

Một lần nữa, tôn giả đã đem chánh pháp ra soi sáng cho chúng sinh không kể là người quyền quý hay kẻ bần cùng. Vì vậy gọi Ngài là đệ nhất luận nghị quả thật là danh bất hư truyền.



Chuyển Ái Tình Thành Giác Ngộ

Đối với việc hoằng dương đạo pháp thì tôn giả lúc nào cũng tích cực mà không quản nhọc nhằn. Một hôm, Ngài đi giáo hóa tại một nước rất xa xôi có tên là Ba La Lê Viên và được cư trú trong rừng trúc của một vị trưởng giả.

Trong khi đó thì quốc vương của nước nầy là Văn Đồ Vương đang gặp một biến cố đau đớn. Số là vị đệ nhất vương phi mà nhà vua rất thương yêu chẳng may bạc mệnh. Nhà vua buồn khổ muôn phần, bỏ ăn bỏ uống, không còn tha thiết đến việc triều nghi và ngày nào cũng khóc lóc kêu thương thảm thiết. Người đã chết, dù là bậc quyền thế tôn quý như vua, cũng không thể cải tử hoàn sanh được. Vua Văn Đồ vì quá luyến ái tình cũ, ra lịnh các quan đại thần ướp xác vương phi và quàn trong cung để mỗi ngày nhà vua được đối diện với tử thi mà than thở:

- Ôi! Cái miệng xinh kia sao không nói chuyện với trẫm? Đôi tay kia sao không ôm trẫm? Vương phi yêu dấu ơi! Sao không chịu mở mắt nhìn trẫm?

Nỗi bi ai của nhà vua cứ triền miên bất tận như thế, còn các quan đại thần chẳng có cách gì làm cho nhà vua vơi sầu quên thảm được. Nhà vua chỉ hết buồn khi nào vương phi được sống lại mà thôi, nhưng người nào có quyền phép mà làm được chuyện nầy?

Đang lúc tấn thối lưỡng nan thì các vị đại thần chợt nghĩ đến tôn giả Ca Chiên Diên hiện đang giáo hóa tại đây. Họ hy vọng với oai đức và sức thần thông thì Ngài có thể giúp nhà vua dứt bỏ mối bi ai mà lo chỉnh đốn triều ca.

Các quan dâng kiến nghị lên vua:

- Muôn tâu đại vương! Trong nước ta hiện nay có một vị đại đệ tử của Đức Phật đang du hóa. Đó là tôn giả Ca Chiên Diên, một bậc đại thần thông, đại oai đức, trí huệ uyên bác không vấn đề gì không hiểu, ngay cả văn tự Phạm Thiên trên tấm bia cổ mà Ngài cũng biết được. Tôn giả biện tài vô ngại, mỗi khi nói chuyện gương mặt thường nở nụ cười. Xin thỉnh đại vương hãy đến gặp Ngài, chắc chắn sẽ có nhiều lợi ích.

Nhà vua nghe xong, vội hỏi:

- Thần thông của người ấy có thể gọi vương phi ta sống dậy không?

Các đại thần lúng túng, không dám nói sao. May thay trong số ấy có một vị đã từng nghe tôn giả thuyết pháp nên cung kính nói:

- Muôn tâu đại vương! Làm cho vương phi sống lại được hay không thì chúng thần không dám trả lời chắc. Chuyện ấy chỉ có đến thỉnh giáo tôn giả Ca Chiên Diên mới biết được thôi.

Vua Văn Đồ chuẩn y lời tấu của các quan liền lập tức ban lệnh đi ngay. Nhà vua ngự xe loan, mang theo nhiều lễ vật đến rừng trúc. Vừa gặp mặt tôn giả, nhà vua liền yêu cầu cứu mạng cho vương phi hồi sinh.

Ca Chiên Diên bẻ một nhánh cây gần đấy và nói với nhà vua:

- Này đại vương! Ngài hãy đem nhánh cây nầy về cung mà giữ cho nó xanh tươi hoài chớ đừng khô héo có được không?

Nhà vua đáp:

- Điều đó không thể được. Cây đã lìa cội rễ thì làm sao mà sống, mà xanh tươi.

Bây giờ tôn giả mới thuyết tiếp:

- Vậy thì phu nhân đã hết nghiệp, thọ mạng đã chấm dứt mà bảo sống trở lại thì chuyện ấy làm sao được?

Vua Văn Đồ ngay lúc đó liền giác ngộ lý vô thường sinh ly tử biệt của tạo hóa. Tôn giả biết nhà vua đã thâm đạt Phật pháp, bèn thuyết pháp tiếp theo:

- Này đại vương! Ngài là vua một nước, là người cai trị toàn dân. Toàn thể dân chúng là người của nhà vua chớ chẳng riêng một mình vương phi là của vua đâu. Đại vương nên đem tấm lòng thương một mình vương phi mở rộng ra thương khắp hết mọi người trong thiên hạ. Dùng lòng từ bi thay thế tình yêu riêng tư thì quốc gia mới hưng thịnh và dân chúng sẽ ủng hộ nhà vua mãi mãi.

Vua Văn Đồ nghe xong thì bừng tỉnh cơn mê và dứt hết mọi buồn thương. Nhà vua đảnh lễ cáo biệt tôn giả, trở về cung an táng cho vương phi, chỉnh đốn lại triều chánh và thương dân như con của chính mình. Từ đó cả nước mừng vui và ai nấy đều cảm kích tài khéo thuyết pháp của tôn gia Ca Chiên Diên.

Ngày nay khói lửa tràn lan khắp thế giới, chúng ta mong mỏi tinh thần đệ nhất nghị luận của tôn giả Ca Chiên Diên sống lại để thuyết phục các nhà lãnh tụ hiếu chiến để họ hồi tâm nhìn lại cho người dân trên thế giới có cơ hội sống trong thanh bình thịnh vượng.

    2.Câu chuyện tiền thân

    3.Các kiếp tương lai

IV.Xuất hiện các bài kinh

       1.Nikaya

       2.A Hàm

       3.Khác

V.Các dòng thông tin

1. Phật giáo Đại Thừa

2. Phật giáo nguyên thủy

3. Kim Cương Thừa

4. Khác

VI.Những vấn đề tranh cãi

VII.Khác

.

Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Thích Minh Tuệ
Sàigòn 1991- Pl 2535


Tôn Giả Ca Chiên Diên
Katyayana – luận Nghị Đệ Nhất

 

Ngày xưa để được gọi là một nhà nho đúng nghĩa, ngoài thông hiểu tứ thư, ngũ kinh, biết làm thơ phú, nhà nho còn phải biết thêm bốc, y, lý và số. Về Phật giáo để được toàn bích ngoài thông hiểu nội điển, một tăng sĩ cần phải biết thêm Thanh minh, Nhân minh, Công xảo minh và Y phương minh gọi chung là Ngũ Minh. Nếu không được như thế, tối đa cũng phải biết 4 hoặc 3, tối thiểu phải biết hai minh. Vì trong khi truyền đạo, dù thuộc kinh điển nhưng trình bày không mạch lạc, khúc chiết, lý luận không biện chứng, logic, thì khó mà thuyết phục được người nghe.

Mặt khác, nếu thuộc kinh điển có lý luận, nhưng giữa diễn giả và thính chúng ngôn ngữ không đồng, phải nhờ đến thông dịch, diễn giả cũng không thể truyền đạt hết tư tưởng, quan điểm cho thính chúng. Bởi thế để trở thành một người thuyết pháp nhà nghề, ngoài am tường nội đIển, tối thiểu các tăng sĩ cần rèn luyện, biết thêm ngôn ngữ và có kiến thức phổ thông. Thời Phật còn tại thế, trong số 10 đại đệ tử, Ca Chiên Diên (Katyayana) không những chỉ thông hiểu những tư tưởng triết học đương thời, am tường giáo pháp của ức Phật, mà còn có tài luận nghị khiến ai vấn nạn cũng đều thán phục. Phật và Thánh chúng phong tặng cho Ngài là bậc Luận Nghị Đệ Nhất.

Dòng Họ và Biện Tài của Ca Chiên Diên

Ở miền Nam Ấn Độ nước A Bà¹n Đồ thôn Di Hầu thuộc dòng Bà La Môn, có một gia đình rất giàu sang và danh giá, được nhiều người kính nể, Ngài Ca Chiên Diên được sinh ra trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là một quốc sư đương thời, Ca Chiên Diên là họ, tên Ngài là Na Da Là, về sau Ngài rất nổi tiếng nên mọi người dùng họ để gọi thay. Ca Chiên Diên cũng có một người anh cũng thông minh tài trí theo cha học đạo Bà La Môn. Để uyên bác hơn, Ca Ca đi nhiều nơi tham học đạo lý với các Bà La Môn danh tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của Bà La Môn, Ca Ca trở về cố hương với ý định lập đàn tràng thuyết giảng Kinh Vệ Đà. Trong khi anh du học ở phương xa, ở nhà Ca Chiên Diên cũng theo cha dồi mài kinh sử, cùng lúc với anh Ca Chiên Diên cũng lập đàn tràng, đối diện với đàn của anh để thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi người chưa?

Trước hai đàn tràng, mọi người cho là Ca Chiên Diên hùng biện hơn Ca Ca, do đó hầu hết thính chúng đều hướng về Ca Chiên Diên. Thấy em làm mất mặt trước đám đông Ca Ca đến trước thân phụ thưa kiện và đòi trừng trị tội trịch thượng của Ca Chiên Diên một cách thích đáng. Ca Chiên Diên được triệu đến để tiện bề phân xử. Trước cha và anh Ca Chiên Diên quỳ lạy và bày tỏ:

· Thưa cha! Xin cha hãy rộng lượng soi xét, trong lúc anh con đi phương xa học hỏi, ở nhà con cũng theo cha cố công dồi mài kinh sử. Con thiết lập đàn tràng để biết công lao học hỏi trong bao năm qua kết quả như thế nào? Chỉ có thế thôi con cũng không có ý đồ cạnh tranh hơn thua, trước thính chúng con không rắp tâm dụ dỗ ai, hai anh em của con sẽ phân trần với nhau, xin cha chớ bận tâm. Hướng về Ca Ca, Ca Chiên Diên cũng tỏ lời xin anh cảm thông và sẽ cùng nhau hòa giải, vì đây chẳng qua chỉ là sự hiểu lầm mà thôi. 

Trước hai người con Quốc sư đều quý mến, không biết nên phân xử thế nào cho phải, chỉ hứa sẽ cho biết ý kiến sau. Sau khi bàn với phu nhân, ông quyết định để làm an lòng cho Ca Ca, vì ông này có nhiều háo thắng vả lại cũng để bảo tồn danh dự cho Ca Ca, Ca Chiên Diên được gởi qua núi Tần Đà ở phương Nam để học đạo với Tiên A Tư Đà. Tiên A Tư Đà là trưởng huynh của thân mẫu Ca Chiên Diên, ông là vị tiên nhân bác học, chứng tứ thiền, ngũ thông được nhân dân Ấn Độ trọng nể lúc bấy giờ. Ca Chiên Diên rất được A Tư Đà thương mến, vì tư chất thông thái chóng lãnh hội những điều được truyền đạt. Một hôm A Tư Đà cho Ca Chiên Diên hay rằng:

· Tuy ta thông hiểu thánh điển Vệ Đà, nhưng sẽ không bằng Thái Tử Tất Đạt Đa con Vua Tịnh Phạn, vì Thái tử sẽ xuất gia thành đạo vô thuợng và sẽ chuyển bánh xe chánh pháp tại vườn Lộc Uyển, xứ Ba La Nại. Sau này con hãy đến đó thọ giáo để triển khai tài năng luận nghị của con, riêng ta chẳng bao lâu nữa sẽ từ giã cuộc đời, không có vinh dự gặp Phật. 

Rồi để chuẩn bị cho cháu, A Tư Đà dẫn Ca Chiên Diên xuống núi đến lập tịnh thất tại Ba La Nại; đúng như lời dự đoán, ít lâu sau A Tư Đà từ giã cõi đời. Nhớ lời khuyên, nên sau khi Đức Phật đến Lộc Uyển chuyển pháp luân, Ca Chiên Diên đI tìm Phật cầu sư học đạo, chứng Thánh quả và trở thành bậc Luận Nghị Đệ Nhất.

Đạo Nghiệp Của Ca Chiên Diên

Biện Luận Pháp Bình Đẳng 

Trong hàng đệ tử của Phật, có hai nhân vật biện luận tài tình đó là Ngài Phú Lâu Na và Ngài Ca Chiên Diên, nhưng khi thuyết pháp Phú Lâu Na thiên về số đông còn Ca Chiên Diên lại thích lý luận với từng người một. Một hôm, Ngài đến phía Tây Ấn Độ, nước Ma Thâu (Mathian) truyền đạo, sau khi xem xét dân tình phong tục địa phương, lề lối sinh hoạt xã hội, Ngài đến yết kiến vua nước Ma Thâu. Thấy Ca Chiên Diên bỏ dòng Bà La Môn theo dòng Sát Đế Lợi là một chuyện lạ, vua Ma Thâu hỏi Ca Chiên Diên:

· Ở đời ta chưa thấy ai bỏ dòng họ cao quý sinh từ đầu Phạm Thiên, để đi theo dòng họ thấp hơn như Tôn giả. Tai sao lại như thế? Có ai ép buộc chăng? 

· Đại vương! Tôi cảm nhận Đức Phật là bậc đại Thánh, trước đây cậu tôi là Tiên A Tư Đà khuyên tôi, tôi rất nghi ngờ, có thể là không xác thực, vì tôi cũng nghĩ như Đại vương, trong đời ai có thể hơn dòng dõi Bà La Môn được. Nhưng khi gặp Phật, nghe Phật khai thị, tôi tự nghĩ trước đây mình vô cùng lầm lẫn. Với luật Ma nu xã hội được chia thành 4 đẵng cấp: – Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá và Thủ Đà La. Luật này có ra, chẳng qua là do dòng Bà La Môn muốn củng cố uy thế mà đặt ra. Giữa con người với con người, ai cũng dòng máu đỏ, nước mắt mặn, ai cũng chào đời với tiếng khóc, chưa hề có dấu tinka ở trán, hay các vòng vàng ở cổ tay, cổ chân. Lớn lên nếu được học, ai cũng có thể thuộc Kinh Vệ Đà, vào thương trường ai cũng có thể có thể biết buôn bán.

Sống ở rẫy bái rộng đồng ai cũng có thể biết cày cấy, được chỉ nghề nghiệp ai cũng có thể sản xuất ra vật tiêu dùng, người không chịu học hỏi tất sẽ ngu dốt. Do đó, có dòng này dòng khác là do luật Manu và xã hội gán ép cho con người. Hơn nữa thiện ác hay cao quý, thấp hèn người dòng nào lại không có. Thế nhưng, trong nhà tù, kẻ làm tôi tớ đều là người thuộc dòng thứ dân. Còn trong dòng Bà La Môn, Sát Đế Lợi không hiếm người phạm pháp, làm điều độc ác nhưng nhờ được che chở bởi dòng họ, người bất lương tội lỗi vẫn ăn trên ngồi trước, thật là bất công! Thái tử Tất Đạt Đa, người đã thấy rõ thực trạng của tư tưởng tôn giáo, xã hội Ấn Độ, nên đã từ bỏ cuộc sống vương giả để đi tìm đạo và thành đạo. ở đời từ xưa đến nay, có mấy ai dám từ chối địa vị cao sang quyền quý và lắm lạc thú như Phật Thích Ca? Hiện nay Phật đang chủ xướng thuyết bình đẳng để xã hội không có cảnh người bóc lột người, người hà hiếp người, người quá dư thừa kẻ làm đầu tắt mặt tối mà vẫn đói khổ. Trong giáo đoàn của người mọi người đều bình đẳng, ai có phẩm hạnh cao tất được tôn trọng, dù đó là người thuộc dòng hạ tiện. 

Với tài luận nghị Ngài đã thao thao thuyết phục vua Ma thâu, một cách biện chứng, lôgic, bởi thế nhà vua đã thể hội giáo pháp bình đẳng của Phật, qua lần gặp Ca Chiên Diên nhà vua cũng thừa nhận Ngài là bậc biện luận đại tài, và yêu cầu được giới thiệu để quy y Phật. Khi trở thành một phật tử, vua Ma Thâu áp dụng phép bình đẳng của Phật để điều hành việc nước. Tất cả tù nhân ở các trại giam đều được phóng thích, ai phạm pháp, có tội đều được đưa đi giáo dục, dù đó là người thuộc dòng Bà La Môn hay Sát Đế Lợi. Nhờ thế cả nước mọi người đều vui mừng, dân tình an cư lạc nghiệp, nhân dân nước Ma Thâu cũng rất cảm kích giáo pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng của Phật Thích Ca.

Ca Chiên Diên đem giáo pháp bình đẳng của Phật truyền bá khắp nơi, khiến mức độ tôn kính Bà La Môn trong nhân dân ngày một giảm sút, bởi thế các Bà La Môn rất oán hận Ca Chiên Diên và luôn luôn tìm cơ hội để đả kích. Một hôm có một Bà La Môn khá giỏi biện luận, từ xứ Câu Thi Na xa xôi, tìm đén Ba La Nại kêu đích danh Ca Chiên Diên để hạch hỏi:

· Này Ca chiên Diên! Ta nghe ngươi bỏ Bà La Môn giáo để theo ông Cù Đàm phải không? người phản bội tín ngưỡng lỗi nhiều hay ít? Ông lại đem giáo pháp của Phật thuyết dụ các Bà La Môn, thật là vô lễ. 

Nghe Bà La Môn kết đủ thứ tội một cách ầm ĩ, với đức tính điềm tĩnh nhưng lý luận sắc bén, Ca Chiên Diên chậm rãi trả lời:

· Ông xem tấm áo cà sa trên thân tôi là biết tôi đã cải tôn giáo rồi, cần gì phải đặt vấn đề. Với tín ngưỡng có nhiều thần quyền, có luật lệ mất bình đẳng, người theo tín ngưỡng đó có đáng để tuân hành không? Người đã biết con đường chánh đạo có cần hướng dẫn cho gia đình bạn hữu, người theo tà giáo trở về nẻo chính hay không? 

Chưa chịu thua vì mục đích đến để hạ bệ Ca Chiên Diên, lão Bà La Môn hỏi:

· Này Ca Chiên Diên! Ngươi là Tỳ kheo, sao không biết giữ oai nghi tế hạnh, trước đây đã không cung kính một lão Bà La Môn trưởng thượng? 

Ca Chiên Diên điềm tĩnh trả lời:

· Giá trị con người không ở tuổi tác mà là ở phẩm hạnh, tôi đã quy y Phật, quy y pháp của Phật, cho nên đương nhiên tôi không thể chấp nhận tà thuyết vái lạy thầy tà bạn ác. 

Nghe Ngài đối đáp sắc bén, lão Bà La môn khâm phục và xin được giới thiệu để ra mắt Đức Phật.

Nguyên nhân tranh cãi

Một buổi sáng sớm trên đường đi khất thực, một Bà La Môn chận Ca Chiên Diên lại và hỏi:

· Tôi nghe tiếng Tôn giả đã lâu nay mới gặp, thật là may mắn. Hiện giờ trong tư tưởng tôi có một thắc mắc mà không giải đáp được, xin Tôn giả chỉ giúp. 

Âng cứ tự nhiên nói, Ngài đáp. 

· Thưa Tôn giả trên thế gian này tôi thấy Sát Đế Lợi tranh cãi với Sát Đế Lợi, Bà La Môn tranh cãi với Bà La Môn. Nguyên nhân gì mà họ lại tranh cãi như thế? 

· Ca Chiên Diên đáp: – Vì tham dục mê hoặc. 

· Thưa Tôn giả! còn Sa Môn với Sa môn tranh cãi vì lý do gì? 

· Vì ngã kiến và pháp chấp. 

· Thế trên cõi đời này ai là người không bị tham dục, mê hoặc và ngã kiến pháp chấp để nương theo? 

Chẳng do dự Ngài đáp: – Đức Phật!

Đạo sĩ Bà La Môn yêu cầu Tôn giả cho được gặp Phật và quy y theo Ngài.

Bán nghèo

Taị nước A Bàn Đề, trên đường đi du hóa, Ca Chiên Diên gặp một người đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ non bên bờ sông. Thấy cảnh đáng thương Ngài dừng bước hỏi:

· Tại sao lại khóc lóc thê thảm như thế? Hãy cho biết lý do thử xem tôi có giúp ích gì được cho bà chăng? 

· Chắc ông không giúp được gì đâu? Bà lão nói. 

· Nếu không giúp được vật chất tôi có thể giúp cho bà phương pháp giải quyết, Ngài đáp. 

· Đời thật là bất công! Bà lão nói, người giàu thì càng giàu thêm, dư ăn dư xài, kho lẫm tràn đầy, ngược lại người nghèo ngày càng xơ xác, đổ mồ hôi mà vẫn không đủ ăn. Cái khó lại bó cái khôn! không có cách xoay xở. Tôi sinh ra trong một gia đình nô lệ khốn cùng, từ khi chào đời đến nay không lúc nào mà cái khổ không đeo đẳng. Vì thế đến nay tôi không còn sức chịu đựng, chỉ muốn đi tìm cái chết may ra mới hết khổ. 

· Thôi đừng khóc lóc nữa, trong cuộc đời này đâu phải chỉ có bà nghèo. Thiên hạ phần đông là người nghèo, bà thử xem tại nước này có bao nhiêu là nhà giàu. Với những thứ tiền của tràn đầy kho lẫm, chắc gì những người giàu đã là không khổ? Vì lòng tham ô không đáy có một họ lại muốn mười. Lòng tham dục hành hạ con người ghê gớm lắm! Bởi thế tuy nghèo, nhưng lòng không dơ bợn, biết vừa đủ là thấy thoải mái hơn. Đức Phật đã nói: “Người giàu tuy ở thiên đường cũng không vừa ý, người nghèo biết vừa đủ tuy nằm dưới đất vẫn thấy an lạc.” 

· Đó là lý thuyết thôi Ngài ơi! Thực tế khác hẳn. Người giàu khác với kẻ nghèo, vì muốn ăn là có ăn, muốn mặc là có mặc. Họ bỏ tiền ra là muốn gì cũng được. Còn nghèo như tôi suốt đời làm nô lệ, làm việc quần quật cả ngày mà đôi lúc còn bị roi vọt, chửi rủa, thức từ 4,5 giờ sáng đến quá 12 giờ đêm mà cơm không đủ no, quần áo rách tả tơi, cái nghèo đeo đẳng suốt đời, vì thế tôi muốn chết may ra mới hết thống khổ 

· Vậy bà hãy bán cái nghèo đi. 

· Cái nghèo đâu có bán được, ai lại dại dột mà đi mua cái nghèo. 

· Nếu bà chịu bán tôi sẵn sàng mua. 

· Thôi đừng đùa, tội quá Ngài ơi! 

· Tôi tu hành nên không có nói đùa đâu, tôi mua thật. Cái nghèo có thể bán lắm chứ? Có điều là người ta không biết cách bán, phương pháp bán nghèo là bố thí. Mọi sự kiện trên đời đều có nguyên nhân. Giàu là kết quả của sự tu phước bố thí, còn nghèo là vì đã quá keo kiệt. Vì thế thực hành bố thí là phương pháp bán nghèo. 

· Nhưng tôi nghèo quá biết lấy gì mà bố thí, cái vò trong tay tôi là của chủ Bà La Môn tôi đâu có đem bố thí được. Lỡ tay làm bể là đã bị ăn đòn, huống gì là đem bố thí cho người khác. 

· Tôi đang khát nước vậy bà hãy đem vò nước xuống sông múc nước bố thí cho tôi. 

Nghe xong bà liền đi múc nước bố thí và tỉnh ngộ. Nhờ Ca Chiên Diên chỉ dẫn, bà thường làm việc bố thí, lòng được thoải mái và cuộc đời trở nên an lạc hơn trước. Nhờ tài luận nghị, suốt cuộc đời đi giáo hóa Ngài đã cảm hóa được nhiều người, dẫn dắt người nghèo về với Đức Phật, khiến ai cũng cảm thấy an lạc ngay trên cõi đời này.

Nhận Thức và Kết Luận

Đức Phật ra đời với mục đích chính yếu là khai hóa cho nhân loại chúng sinh biết con đường giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Tuy nhiên không phải vì thế mà Phật bỏ quên vấn đề xây dựng con người, xây dựng xã hội, đó là mầm mống cho giải thoát sinh, già, bệnh, chết. Nếu mầm mống không xây thì lâu đài không có chỗ dựa vững chắc. Trong kinh Bách Dụ có câu chuyện:

· Người mướn thợ xây nhà mà chỉ đòi xây lầu không cần xây nền móng, người đời gọi đó là xây nhà trên nền cát, việc làm đó chẳng bao giờ thực hiện được. 

· Trong kinh Phật dạy: Phật pháp bất ly thế gian giác, ly thế mích bồ đề do như cầu thế giác. Nghĩa là: Phật pháp không ngoài thế gian mà giác ngộ, xa lìa cuộc đời mà tin bồ đề, giống như tìm lông rùa sừng thỏ. 

Một trong những nguyên nhân thúc đẩy Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia chính là xã hội không bình đẳng, không an lạc của Ấn Độ lúc bấy giờ. Noi guơng Đức Phật trên đường đi bố giáo Ca Chiên Diên đến gặp vua nước Ma Thâu, nhân cơ hội nhà vua kích bác vấn đề bỏ đẳng cấp cao theo đẳng cấp thấp của mình, Ngài đã đem thuyết bình đẳng diễn giảng. Sau cuộc hội kiến với Ca Chiên Diên, vua Ma Thâu áp dụng giáo pháp bình đẳng vào xã hội, nhờ đó nước Ma Thâu được an lạc, không còn cảnh người bóc lột người, kẻ nô lệ luôn luôn chịu cảnh nô lệ, người Bà La Môn cứ tiếp tục ăn trê ngồi trước dù phạm pháp, ác độc. Qua câu chuyện vua nước Ma Thâu, thực hành pháp bình đẳng trong công tác xây dựng xã hội cho thấy đạo Phật không tiêu cực, xa thực tế để đi tìm một thế giới trên chín tầng mây. 

Ngoài truyền bá giáo lý bình đẳng Ngài còn đề cao giá trị con người qua phẩm giá đạo đức, để từ đó có tinh thần vị tha, bố thí giúp cho con người hết đói nghèo và đặc biệt là loại trừ tính tham dục, mê hoặc, ngã kiến, ngã chấp, để sống hòa hợp không tranh cãi. Với những tinh thần đạo lý, qua các cuộc hùng biện của Ca Chiên Diên, ngày nay con người cần được phổ biến học hỏi. Bởi vì cuộc sống của con người quá chênh lệch, giữa kẻ giàu và người nghèo, kẻ sang người hèn, cần có một nhịp cầu thông cảm để nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau hầu xây dựng cho nhân loại một cuộc sống thanh bình và an lạc

 

II. Phim hoạt hình tôn giả Ca Chiên Diên

https://www.youtube.com/watch?v=9LDo0cA_x5k

 

 

III. Thông tin thêm từ  Đại Phật Sử

ĐẠI TRƯỞNG LÃO KACCĀYANA (Ca-chiên-diên)

  1. Nguyện vọng quá khứ

    Vị thiện nam, Đại trưởng lão Kaccāyana đương lai, được nuôi dưỡng trong một gia đình của các gia chủ trong thời kỳ của Đức Phật Padumuttara. Một hôm, cũng giống như các vị trưởng lão đương lai trước, vị ấy đi đến tịnh xá và đứng ở mé ngoài của thính chúng để nghe pháp. Khi thấy Đức Phật ban danh hiệu etadagga cho một vị tỳ khưu trong các tỳ khưu thiện xảo về phân tích Pháp được nói tóm gọn. Khi đó ý nghĩ sau đây sanh lên trong vị ấy: “ Vị tỳ khưu này quả thật tối thắng! Vị ấy được Đức Thế Tôn khen ngợi (là tối thắng nhất trong những vị tỳ khưu có khả năng phân tích chia chẻ những gì được Đức Phật giảng dạy tóm tắt). Ta hãy thành vị tỳ khưu đạt được danh hiệu như vậy trong thời kỳ giáo pháp của một vị Phật đương lai.” Khi nghĩ vậy, vị ấy thỉnh mời Đức Phật và tổ chức đại thí trong bảy ngày. Theo cách như đã nêu ra ở trước: “ Bạch Đức Thế Tôn,” vị thiện nam nói, “Con không cầu bất cứ loại hạnh phúc nào với quả phước của bảy ngày bố thí cúng dường. Thật ra, con chỉ mong đạt được địa vị của người giữ danh hiệu etadagga như vị tỳ khưu mà cách đây bảy ngày đã đạt được (trong những người có thể phân tích chia chẻ những gì được nói một cách tóm gọn).” Sau khi nói như vậy vị ấy nằm sấp dưới chân Đức Phật.

    Khi Đức Phật Padumuttara dò xét về tương lai, Ngài thấy rằng ước nguyện của vị thiện nam tử kia sẽ được thành tựu; do đó Ngài tiên tri rằng: “ Này thiện nam, cuối một trăm ngàn đại kiếp kể từ nay sẽ có Đức Phật Gotama xuất hiện. Trong thời của Đức Phật ấy, ngươi sẽ trở thành người đạt được danh hiệu etadagga trong những tỳ khưu có khả năng giải thích chi tiết ý nghĩa của giáo pháp được giảng dạy tóm tắt.” Sau khi ban bố bài pháp tùy hỉ công đức, Ngài rời khỏi chỗ ấy.

    Việc cúng dường những viên gạch bằng vàng

    Sau khi làm các việc phước cho đến khi thân hoại mạng chung, vị thiện nam tái sanh trong cõi chư thiên và nhân loại suốt một trăm ngàn đại kiếp, rồi tái sanh trong một gia đình tốt, trong kinh thành Bārāṇasī vào thời kỳ của Đức Phật Kassapa. Khi Đức Phật nhập Parinibbāna, vị thiện nam đến nơi bảo tháp tôn trí Xá lợi của Đức Phật đang được xây dựng. Ở đây vị ấy cúng dường những viên gạch bằng vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng để tôn vinh Đức Phật và nói rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn, trong bất cứ kiếp nào mà con sanh ra xin cho sắc thân của con có màu vàng ròng!”

  2. Đời sống xuất gia trong kiếp chót

    Sau khi đã làm nhiều việc phước, vị ấy tái sanh trong cõi chư thiên và nhân loại trong một A-tăng-kỳ kiếp (asaṅkheyya-kappa) trong thời gian giữa hai vị Phật. Trong thời Đức Phật của chúng ta, vị ấy làm con trai của vị quốc sư (purohita) trong kinh thành Ujjenī. Vào ngày đặt tên của cậu bé, người cha nhận xét: “ Việc con trai của ta có nước da màu vàng ròng sẽ đem lại tên của chính nó.” Do đó cậu bé được cha mẹ và quyến thuộc đặt tên là Kañcana (vàng). Khi đến tuổi trưởng thành, chàng trai có nước da vàng ròng thông suốt ba bộ Phệ đà. Khi người cha, vị quốc sư qua đời, vị ấy kế thừa địa vị ấy. Là quốc sư, vị ấy được gọi bằng tên của dòng tộc là Kaccāna.

    Vua Caṇḍapajjota triệu tập các quan và nói rằng: “ Này các khanh, một vị Phật đã xuất hiện trong thế gian. Ai trong các khanh có thể thỉnh Đức Phật?” Các quan đồng loạt trả lời: “ Tâu đại vương, không ai có khả năng làm như vậy ngoại trừ quốc sư Kaccāna, vị ấy có thể đi thỉnh Đức Phật,” Đức vua cho mời vị ấy đến và nói rằng: “ Này khanh Kaccāna, hãy đi thỉnh Đức Phật cho trẫm.” “ Tâu đại vương,” Kaccāna đáp lại, “ Hạ thần sẽ đi nếu đại vương cho phép hạ thần được xuất gia.” “ Này khanh Kaccāna, hãy làm bất cứ điều gì

    mà khanh muốn, miễn sao thỉnh Đức Phật cho trẫm.” Khi nói vậy đức vua chuẩn phê cho vị ấy.

    Khi nghĩ rằng: “ Những người đi đến Đức Phật thì không nên đi trong một hội chúng lớn,” vị ấy đi yết kiến Đức Phật cùng với bảy người khác, vị ấy là người thứ tám (nghĩa là vị ấy dẫn theo bảy người), Đức Phật thuyết một bài pháp, vào lúc kết thúc thời pháp, quốc sư Kaccāna cùng với bảy người đi chung đều chứng đắc đạo quả A-la-hán, Tứ tuệ Phân tích (paṭisambhidā-patta). Rồi Đức Phật duỗi bàn tay phải ra và gọi đến: “ Hãy đến, này các tỳ khưu!” Tóc và râu của tám người ngay tức thì biến mất, y và bát được tạo ra do thần thông (iddhimaya) xuất hiện trên thân của họ. Họ trở thành những vị tỳ khưu có tướng mạo như những vị đại trưởng lão trải qua sáu mươi hạ lạp và tám mươi tuổi thọ.

    Sau khi đạt đến đỉnh cao của phận sự Sa-môn (tức là Đạo Quả A-la-hán), Trưởng lão Kaccāna không trì hoãn khinh suất mà thỉnh cầu Đức Phật đến viếng kinh đô Ujjenī bằng cách đọc lên những câu kệ tán dương chuyến hành trình giống như trưởng lão Kāḷudāyī. Sau khi nghe những lời của trưởng lão Kaccāna, Đức Phật biết rằng: “Kaccāna muốn Ta đến kinh thành Ujjenī, chư Phật không lên đường đi đến nơi mà không đáng viếng thăm vì một số lý do.” Do đó, Ngài hỏi trưởng lão Kaccāna: “ Này con, con hãy đi một mình đến Ujjenī. Nếu con đi thì vua Caṇḍapajjota sẽ hoan hỉ.”

    Nhận biết rằng: “ Chư Phật luôn nói rõ nghĩa,” trưởng lão cung kính phụng hành và lên đường đến kinh đô Ujjenī cùng với bảy vị tỳ khưu đã từng đồng hành.

    Hai người con gái của hai vị trưởng giả

    Trên đường đi đến Ujjenī, trưởng lão đi khất thực trong thị trấn Telapanāḷi, ở giữa cuộc hành trình. Trong thị trấn ấy có hai tiểu thư mà cha là những thương nhân. Trong hai người ấy, một người thuộc gia đình của vị thương nhân làm ăn thua lỗ. Khi cha mẹ qua đời, nàng phải sống nương tựa vào vú nuôi. Nhưng nàng có một thân hình đầy

    đặn và xinh đẹp, tóc của nàng dài hơn tóc của cô tiểu thư kia, mềm mại và xoắn nhiều hơn, màu đen nhánh như sắc của con ong. Nàng tiểu thư kia ít tóc hơn, sống chung một thị trấn. Trước khi trưởng lão Kaccāna đến thị trấn, nàng đã tìm cách mua một ít tóc từ nàng tiểu thư có mái tóc đẹp với lời nhắn rằng nàng sẽ trả một trăm hoặc một ngàn đồng tiền vàng hoặc bất cứ giá nào. Nhưng chủ nhân của mái tóc đã từ chối không bán.

    Vào ngày trưởng lão Kaccāna đến khất thực, nàng công nương có mái tóc xinh đẹp trông thấy trưởng lão đi chung với bảy vị tỳ khưu mà không có gì trong bát. Khi ấy nàng khởi lên ý nghĩ : “ Người con cháu của Phạm thiên với nước da vàng ròng đã đến với bình bát trống rỗng, nhưng ta không có cái gì để cúng dường. Cô công nương này vừa mới sai người đến đây để mua mái tóc của ta. Giờ đây ta sẽ có đủ những lễ vật cúng dường cho vị trưởng lão cao quý bằng số tiền bán mái tóc của ta.” Và nàng bảo người vú nuôi đi thỉnh các vị trưởng lão và dâng chỗ ngồi đến các ngài trong nhà của nàng.

    Khi các vị trưởng lão bắt đầu ngồi xuống, nàng công nương đi vào phòng của mình và bảo bà vú nuôi cắt mái tóc rồi bảo bà đi với lời dặn dò: “ Thưa mẹ, hãy đi và bán mớ tóc này cho cô công nương có tên đó rồi đem về số tiền mà cô ta đã mua. Chúng ta sẽ dâng vật thực đến các vị đại đức.” Bà vú nuôi buồn bã đưa tay lên mặt chùi nước mắt, còn tay kia giữ lấy ngực che dấu mớ tóc mang theo để các vị trưởng lão không trông thấy, bà đi đến nàng công nương kia,

    “ Theo cách thông thường của việc trao đổi buôn bán thì bên người mua không đánh giá đồ vật do người bán đích thân đem đến dù món hàng có tốt và giá trị đến bao nhiêu.” (tức là người mua cố tìm cách mua nó với giá rất thấp)

    Cho nên vị công nương có mái tóc thưa nhưng giàu có đã suy nghĩ rằng: “ Trước kia ta không thể có được mái tóc dù ta đã trả nhiều tiền. Nhưng giờ đây mái tóc đã bị cắt đi và nàng ta sẽ không có được cái giá ban đầu. Nàng ta phải chấp nhận số tiền mà ta trả.” Do đó nàng công nương kia nói với bà vú nuôi: “ Này vú, tôi đã không có được mái tóc dù tôi đã trả giá rất cao. Vật không còn sự sống như mái tóc

    này có thể đã rớt xuống ở bất cứ nơi nào, nó chỉ đáng giá tám đồng tiền vàng.” Và nàng ta chỉ trả cho bà vú nuôi tám đồng tiền vàng, một cái giá thấp quá mức.

    Bà vú nuôi đem số tiền về cho cô chủ, nàng công nương đã cúng dường đến tám vị tỳ khưu, mỗi vị một phần vật thực trị giá một đồng tiền vàng. Khi trưởng lão Kaccāna quán xét, ngài thấy việc phước của nàng công nương đầy đủ những tiềm năng. Bởi vậy trưởng lão hỏi rằng: “ Công nương hiện đang ở đâu?” “ Ở trong phòng của nàng, thưa đại đức,” bà vú trả lời. Khi ấy trưởng lão bảo bà vú đưa công nương ra trước vị ấy.

    Nàng công nương, thí chủ cúng dường vật thực, đi ra theo yêu cầu của trưởng lão, nhưng vì nàng đã có nhiều tôn kính đối với các vị tỳ khưu và đã cúi đầu đảnh lễ các ngài, niềm tin của nàng đối với chúng Tăng tăng trưởng mạnh mẽ. (Những hạt giống bố thí vật thực được gieo trong thời Giáo pháp của Phật giống như gieo vào mảnh đất màu mỡ cho ra những kết quả tốt đẹp ngay trong đời sống hiện tại). Thế nên, ngay khi nàng công nương cúi chào, thì mái tóc của nàng trở nên dầy dặn như trước kia. Các vị đại trưởng lão thọ lãnh vật thực rồi bay lên không trung ngay trước mắt nàng; và họ đáp xuống trong vườn thượng uyển của vua Caṇḍapajjota, khu vườn có tên gọi là Kañcana-vana.

    Khi nhìn thấy trưởng lão Kaccāna, người giữ vườn đi đến đức vua và tâu: “ Tâu đại vương, người chủ của chúng tôi, quốc sư Kaccāna, đã trở thành Sa-môn và viếng thăm vườn thượng uyển.” Vua Caṇḍapajjota đi đến vườn thượng uyển và đảnh lễ trưởng lão bằng năm loại tôn kính khi ngài đã độ thực xong, rồi ngồi xuống ở nơi thích hợp và hỏi rằng: “ Bạch đại đức, Đức Thế Tôn ở đâu?” Khi trưởng lão trả lời, “ Tâu đại vương, Đức Phật chưa đến, Ngài chỉ cử bần Tăng đến đây.” Đức vua hỏi lại: “ Bạch đại đức, hôm nay đại đức thọ lãnh vật thực ở đâu?” Để trả lời đúng câu hỏi của đức vua, trưởng lão Kaccāna kể cho vua nghe về việc phước khó làm của nàng công nương, người đã cúng dường vật thực cho trưởng lão.

    Sau khi cung cấp cho trưởng lão phòng ở và tiện nghi, vua Caṇḍapajjota mời trưởng lão đến thọ thực vào ngày mai và trở về hoàng cung. Nơi đây vua cho triệu vời nàng công nương, người cúng dường vật thực, bằng mệnh lệnh vua tôn phong nàng lên ngôi chánh hậu. Đây chỉ là sự hoạch đắc tài sản và hạnh phúc trong kiếp sống hiện tại của nàng công nương do kết quả của đổng lực tâm thiện đầu tiên (pathama-javana).

    ( Ở đây ý nghĩa là như thế này: trong việc bố thí như sự cúng dường vật thực, có bảy sát na đổng lực liên quan đến đại thiện tư (mahā-kusala cetanā). Trong bảy sát na đổng lực ấy, đổng lực thứ nhất cho quả trong kiếp sống hiện tại nếu có những hoàn cảnh thuận lợi. Cho nên đổng lực tâm thứ nhất được gọi là diṭṭha-dhamma vedaniya-kamma – hiện báo nghiệp. Đổng lực tâm thứ bảy cho quả trong kiếp thứ hai nếu có những hoàn cảnh thuận tiện. Cho nên nó được gọi là upapajja-vedaniya-kamma – sanh báo nghiệp. Năm đổng lực tâm ở giữa cho quả trong những kiếp tiếp theo từ kiếp thứ ba trở đi, nếu có những hoàn cảnh thuận tiện. Cho nên những đổng lực tâm này được gọi là aparāpariya-vedaniya-kamma – hậu báo nghiệp, nghiệp cho quả trong những kiếp sau.

    (Khi một nghiệp cho quả của nó, thì quả ấy có hai loại: bhava (hữu) và bhavasampatti (hữu thành tựu). Các danh uẩn và sắc thân được hình thành bởi nghiệp sanh lên vào lúc tục sanh (paṭisandhi) và vào lúc chuyển khởi (pavatti) thì được gọi là quả bhava. Danh uẩn và thân mà đươc sản sanh bởi nghiệp thì được gọi là patti-bhava. Các loại tài sản được thọ hưởng trong đời sống thì được gọi là quả bhava-sampatti.

    Trong ba loại nghiệp thì upapajja-vedaniya-kamma và aparāpariyavedaniya-kamma cho hai loại quả là bhava và bhava-sampatti. Về đổng lực tâm thứ nhất hay nghiệp cho quả trong kiếp hiện tại, nó chỉ mang đến bhava-sampatti, tức là những hình thức tài sản khác nhau được thọ hưởng trong kiếp ấy mà không phải là bhava vì quả ấy đã được cho ra rồi bởi janakakamma (sanh nghiệp) mà đã tạo ra kết quả là sự thọ thai trong kiếp sống này. Cho nên đổng lực

    tâm đầu tiên hay nghiệp cho quả trong kiếp sống hiện tại của nàng công nương đang được bàn đến chỉ đem lại cho nàng kết quả là bhavasampatti, là tài sản trong kiếp sống hiện tại).

    Từ lúc ấy trở đi, vua Caṇḍapajjota rất mực tôn kính trưởng lão Kaccāna. Do hoan hỉ với sự thuyết pháp của trưởng lão, nhiều người đã trở thành tỳ khưu trước sự hiện diện của vị ấy. Kể từ đó toàn thể kinh đô Ujjenī tràn ngập màu y vàng và bàng bạc những làn gió nhẹ do sự chuyển động đi lại của các vị tỳ khưu. Hoàng hậu mang thai hoàng nhi và khi hạ sanh hoàng nhi sau mười tháng, hoàng tử được đặt tên là Gopāla theo tên của ông nội. Hoàng hậu được mọi người biết đến là Gopālamātā theo tên con trai. Vì hoàng hậu Gopāla-mātā có niềm tin sâu sắc nơi trưởng lão Kaccāna, nàng đã xây dựng một tịnh xá dành cho trưởng lão trong khu vườn Kaccāna-vana và dâng nó đến trưởng lão, được sự cho phép của đức vua. Sau khi đã làm cho dân chúng kinh thành Ujjenī có niềm tin trong Giáo pháp của Đức Phật, trưởng lão đã trở về với Đức Phật.

  3. Đạt danh hiệu Etadagga

    Về sau, khi đang ngự ở Jetavana, trong hội chúng tỳ khưu, Đức Phật đã nói lời tán dương trưởng lão Kaccāna và ban danh hiệu etadagga cho vị ấy, liên quan ba bài kinh: (1) Madhupiṇḍika, (2) Kaccāna-yeyyāla và (3) Pārāyana:

    Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ saṃkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ vibhajantānaṃ yadidaṃ Mahākaccāno.

    Này các tỳ khưu, trong số những đệ tử của Như Lai mà có khả năng phân tích chia chẻ những gì đã được thuyết giảng một cách tóm tắt, tỳ khưu Mahākccāna là Tối thắng (etadagga).

    Những bài pháp được thuyết giảng bởi Đại trưởng lão có thể được tìm thấy trong bộ Apadāna và Chú giải của nó, bộ Thera-gāthā và Chú giải của nó, v.v…

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state