Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tôn giả Cundaka
2. Cunda . - Các sách dường như đề cập đến hai vị trưởng lão tên là Cunda, vị được biết đến nhiều hơn là Mahā-Cunda và vị kia là Cūla-Cunda. Nhưng những truyền thuyết liên quan đến họ rất mơ hồ đến nỗi không thể phân biệt rõ ràng vị này với vị kia. Tuy nhiên , cũng có đề cập đến Cunda-Samanuddesa , người mà các Chú giải (ví dụ DA.iii.907) đồng nhất với Mahā-Cunda. Ví dụ, Mahā-Cunda được mô tả trong Chú giải Theragāthā (ThagA.i.261; xem thêm DhA.ii.188 và AA.ii.674) là em trai của Sāriputta , người đã gia nhập Tăng đoàn, đạt được quả vị A-la-hán sau nỗ lực gian khổ và vất vả.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:867

Các tên gọi khác

2. Cunda . - Các sách dường như đề cập đến hai vị trưởng lão tên là Cunda, vị được biết đến nhiều hơn là Mahā-Cunda và vị kia là Cūla-Cunda. Nhưng những truyền thuyết liên quan đến họ rất mơ hồ đến nỗi không thể phân biệt rõ ràng vị này với vị kia. Tuy nhiên , cũng có đề cập đến Cunda-Samanuddesa , người mà các Chú giải (ví dụ DA.iii.907) đồng nhất với Mahā-Cunda. Ví dụ, Mahā-Cunda được mô tả trong Chú giải Theragāthā (ThagA.i.261; xem thêm DhA.ii.188 và AA.ii.674) là em trai của Sāriputta , người đã gia nhập Tăng đoàn, đạt được quả vị A-la-hán sau nỗ lực gian khổ và vất vả.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+

2. Cunda.-The books appear to refer to two theras by the name of Cunda, the better known being Mahā-Cunda and the other Cūla-Cunda. But the legends connected with them are so confused that it is not possible to differentiate clearly one from the other.

Mention is also made of a Cunda-Samanuddesa whom, however, the Commentaries (E.g.. DA.iii.907) identify with Mahā-Cunda. Mahā-Cunda is, for instance, described in the Theragāthā Commentary (ThagA.i.261; see also DhA.ii.188 and AA.ii.674) as the younger brother of Sāriputta, under whom he joined the Order, winning arahantship after arduous and strenuous effort.

In the time of Vipassī Buddha he had been a potter and had given to the Buddha a bowl made of clay. The Apadāna verses quoted in the Theragāthā Commentary are, in the Apadāna itself (Ap.ii.444), ascribed to a monk named Ekapattadāyaka. They make no mention whatever of his relationship to Sāriputta. On the other hand, there are to be found elsewhere in the Apadāna (Ap.i.101f) certain verses ascribed to a Cunda Thera, which definitely state that he was the son of the brahmin Vanganta, and that his mother was Sārī. But in these verses he is called Cūla-Cunda, and mention is made of his previous birth in the time of Siddhattha Buddha, to whom he gave a bouquet of jasmine flowers. As a result he became king of the devas seventy-seven times and was once king of men, by name Dujjaya. It is further stated that he became arahant while yet a sāmanera and that he waited upon the Buddha and his own brother and other virtuous monks. This account goes on to say that after his brother's death, Cunda brought his relics in a bowl and presented them to the Buddha, who uttered praises of Sāriputta. This would identify Cūla-Cunda with Cunda Samanuddesa who, according to the Samyutta Nikāya (S.v.161f), attended Sāriputta in his last illness and, after his death, brought to the Buddha at Jetavana Sāriputta's bowl and outer robe and his relics wrapt in his water-strainer. Therefore if Buddhaghosa is correct in identifying Cunda Samanuddesa with Mahā-Cunda, then all three are one and the same. (Buddhaghosa says that the monks called him Samanuddesa in his youth before his upasampadā, and he never lost the name, DA.iii.907).

Cunda Samanuddesa was, for some time, the personal attendant of the Buddha (ThagA.ii.124; J.iv.95, etc.), and when the Buddha prepared to perform the Twin Miracle, offered to perform a miracle himself and so save the Buddha trouble and exertion (DhA.iii.211). Cunda's teacher was Ananda, and it was to Ananda that he first brought the news of Sāriputta's death. (SA.iii.178; see also the Pāsādika Sutta and the Sāmagāma Sutta, where Cunda brings to Ananda and then to the Buddha the news of Nigantha Nātaputta's death; see also the Sallekha Sutta).

Mahā-Cunda was evidently a disciple of great eminence, and is mentioned by the Buddha (A.iii.299; see also M.iii.78; Ud.i.5) in company with the Two Chief Disciples, Mahā KassapaMahā KotthitaMahā Kaccāna and other very eminent Elders.

The Pitakas contain several discourses (A.iii.355; v.41, 157) given to the monks by Mahā-Cunda while residing at Sahajātī among the Cetis, probably after the Buddha's death. Cunda (or Cundaka as he is called in this context) was with the Buddha in his last journey to Kusinārā, and spread a bed for him in the Mango grove by the Kakutthā River (D.ii.134f; Ud.viii.5).

Cunda is mentioned (S.iv.50f.; M.iii.263f ) as having accompanied Sāriputta when he went to see Channa at the Kalandakanivāpa in Rājagaha, just before Channa's suicide. Once, when the Buddha lay ill in the Kalandakanivāpa, Cunda visited him and they talked of the bojjhangas. There and then the Buddha's sickness vanished. S.v.81.

 

2. Cunda . - Các sách dường như đề cập đến hai vị trưởng lão tên là Cunda, vị được biết đến nhiều hơn là Mahā-Cunda và vị kia là Cūla-Cunda. Nhưng những truyền thuyết liên quan đến họ rất mơ hồ đến nỗi không thể phân biệt rõ ràng vị này với vị kia.

Tuy nhiên , cũng có đề cập đến Cunda-Samanuddesa , người mà các Chú giải (ví dụ DA.iii.907) đồng nhất với Mahā-Cunda. Ví dụ, Mahā-Cunda được mô tả trong Chú giải Theragāthā (ThagA.i.261; xem thêm DhA.ii.188 và AA.ii.674) là em trai của Sāriputta , người đã gia nhập Tăng đoàn, đạt được quả vị A-la-hán sau nỗ lực gian khổ và vất vả.

Vào thời Đức Phật Vipassī , ông là một thợ gốm và đã dâng cho Đức Phật một cái bát làm bằng đất sét. Những câu thơ Apadāna được trích dẫn trong Chú giải Theragāthā, trong chính Apadāna (Ap.ii.444), được cho là của một nhà sư tên là Ekapattadāyaka . Chúng không đề cập gì đến mối quan hệ của ông với Sāriputta. Mặt khác, có thể tìm thấy ở những nơi khác trong Apadāna (Ap.i.101f) một số câu thơ được cho là của một Cunda Thera, trong đó nêu rõ rằng ông là con trai của brahmin Vanganta , và mẹ của ông là Sārī . Nhưng trong những câu thơ này, ông được gọi là Cūla-Cunda, và có đề cập đến kiếp trước của ông vào thời Đức Phật Siddhattha , người mà ông đã tặng một bó hoa nhài. Kết quả là ông đã trở thành vua của các thiên thần bảy mươi bảy lần và đã từng là vua của loài người, với tên là Dujjaya. Người ta còn nói thêm rằng ông đã trở thành A la hán khi vẫn còn là một sa di và rằng ông đã hầu hạ Đức Phật và anh trai của mình cùng các nhà sư đức hạnh khác. Câu chuyện này tiếp tục nói rằng sau khi anh trai mình qua đời, Cunda đã mang xá lợi của mình trong một cái bát và dâng lên Đức Phật, người đã ca ngợi Sāriputta. Điều này sẽ đồng nhất Cūla-Cunda với Cunda Samanuddesa, người mà theo Samyutta Nikāya (Sv161f), đã chăm sóc Sāriputta trong cơn bệnh cuối cùng của ông và sau khi ông qua đời, đã mang đến cho Đức Phật tại Jetavana bát và áo ngoài của Sāriputta và xá lợi của ông được gói trong cái lọc nước của ông. Do đó, nếu Buddhaghosa đúng khi đồng nhất Cunda Samanuddesa với Mahā-Cunda, thì cả ba đều là một và giống nhau. (Buddhaghosa nói rằng các nhà sư gọi ông là Samanuddesa khi ông còn trẻ trước khi xuất gia, và ông không bao giờ mất đi cái tên DA.iii.907).

Cunda Samanuddesa trong một thời gian là thị giả riêng của Đức Phật (ThagA.ii.124; J.iv.95, v.v.), và khi Đức Phật chuẩn bị thực hiện Phép lạ song sinh , đã đề nghị tự mình thực hiện một phép lạ để cứu Đức Phật khỏi rắc rối và nỗ lực (DhA.iii.211). Thầy của Cunda là Ananda , và chính Ananda là người đầu tiên mang tin tức về cái chết của Sāriputta. (SA.iii.178; xem thêm Pāsādika Sutta và Sāmagāma Sutta , trong đó Cunda mang đến cho Ananda và sau đó là đến Đức Phật tin tức về cái chết của Nigantha Nātaputta ; xem thêm Sallekha Sutta ).

Mahā-Cunda rõ ràng là một đệ tử có địa vị cao, và được Đức Phật nhắc đến (A.iii.299; xem thêm M.iii.78; Ud.i.5) cùng với Hai vị Đại đệ tử là Mahā Kassapa , Mahā Kotthita , Mahā Kaccāna và những vị Trưởng lão rất lỗi lạc khác.

Kinh Tạng chứa đựng nhiều bài pháp (A.iii.355; v.41, 157) do Mahā-Cunda thuyết giảng cho các tỳ kheo khi ngài trú ngụ tại Sahajātī giữa các Cetis, có lẽ sau khi Đức Phật nhập diệt. Cunda (hay Cundaka như được gọi trong bối cảnh này) đã ở cùng Đức Phật trong chuyến đi cuối cùng đến Kusinārā , và đã trải giường cho Ngài trong rừng Xoài bên bờ sông Kakutthā (D.ii.134f; Ud.viii.5).

Cunda được nhắc đến (S.iv.50f.; M.iii.263f) là đã tháp tùng Sāriputta khi ngài đến gặp Channa tại Kalandakanivāpa ở Rājagaha , ngay trước khi Channa tự sát. Một lần, khi Đức Phật nằm bệnh tại Kalandakanivāpa , Cunda đã đến thăm ngài và họ nói chuyện về các bojjhanga . Ngay lúc đó, bệnh tình của Đức Phật đã biến mất. Sv81.

 

Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Phật tự thuyêt - PT08 - Chương Tám : Phẩm Pàtaligàmiya

(V) (Ud 84)

Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn đang bộ hành đi giữa dân chúng Mallà, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đã đến Pàvà. Rồi Thế Tôn trú ở Pàvà, tại rừng xoài của thợ rèn Cunda. Thợ rèn Cunda được nghe: “Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Mallà, đã đến Pàvà cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và trú ở Pàvà, trong rừng xoài của ta”. Thợ rèn Cunda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp thoại cho thợ rèn Cunda đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Thợ rèn Cunda sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo.

Thế Tôn im lặng nhận lời. Thợ rèn Cunda, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Thợ rèn Cunda, sau khi đêm đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà của mình các món ăn thượng vị, loại cứng, loại mềm và nhiều thứ mộc nhĩ và báo tin cho Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng.

Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà thợ rèn Cunda, khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với thợ rèn Cunda:

– Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho Ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn cho chúng Tỷ-kheo.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Thợ rèn Cunda vâng lời Thế Tôn, dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món ăn khác, loại cứng và loại mềm. Rồi Thế Tôn nói với thợ rèn Cunda:

– Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại, hãy đem chôn. Này Cunda, Ta không thấy một ai, ở cõi trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Thợ rèn Cunda vâng đáp Thế Tôn, đem chôn món ăn mộc nhĩ còn lại vào một lỗ, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ rèn Cunda đang ngồi xuống một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ rồi từ chỗ đứng dậy và ra đi.

Sau khi dùng cơm của thợ rèn Cunda. Thế Tôn bị nhiễm bịnh nặng, bệnh ly huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại chịu đựng cơn bệnh.

Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kusinàra. Xin vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn:

2. Dùng cơm Cunda xong,

Như vậy tôi được nghe,

Bậc trí cảm bệnh nặng,

Bạo bệnh, gần như chết,

Khi ăn loại mộc nhĩ

Ðạo Sư bị bệnh nặng,

Khi bệnh được lắng dịu,

Thế Tôn nói như sau:

“Ta nay sẽ đi đến,

Ðến Kusinàra”.

Rồi Thế Tôn bước xuống đường, đến một góc cây và nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy xếp tư áo Sanghàti. Ta cảm thấy mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này Ananda.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn và xếp áo Sanghàti lại. Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, và nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước cho Ta. Này Ananda. Ta nay đang khát và muốn uống nước.

Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khấy lên nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẫn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm mát dịu chân tay.

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.

Lần thứ hai, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẫn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm mát dịu chân tay.

Lần thứ ba, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy bát và đi đến con sông nhỏ. Con sông đang chảy nông cạn, khuấy động và vẫn đục, khi Tôn giả Ananda đến, liền chảy trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục.

Tôn giả Ananda tự nghĩ: “Thật kỳ diệu thay! Thật hi hữu thay! Thần lực và uy lực của Như Lai. Con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẫn đục này, khi ta đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục”. Sau khi dùng bát lấy nước,Ananda đến chỗ Thế Tôn và bạch với Ngài:

– Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu! Bạch Thế Tôn, thật là hy hữu! Bạch Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẫn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước, xin thỉnh Thiện Thệ dùng nước và Thế Tôn uống nước.

Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến con sông Kakutthà, xuống sông tắm và uống nước, rồi lội qua bờ bên kia, đi đến rừng xoài và tại đây, nói với Tôn giả Cundaka:

– Này Cundaka, hãy xếp áo Sanghati làm bốn cho Ta, này Cundaka, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Cundaka vâng lời Thế Tôn và xếp áo Sanghati làm bốn. Rồi Thế Tôn nằm xuống phía hông bên mặt như dáng điệu con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm, tỉnh giác, tác ý đến tưởng ngồi dậy, Tôn giả Cundaka ngồi phía trước Thế Tôn.

3. Ðức Phật tự đi đến,

Con sông Kakutthà,

Con sông chảy trong sáng,

Mát lạnh và thanh tịnh,

Vị Ðạo Sư mỏi mệt,

Ði dần xuống mé sông,

Như Lai đấng vô thượng

Ngự trị ở trên đời.

Tắm xong uống nước xong,

Lội qua bên kia sông,

Bậc Ðạo sư đi trước,

Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,

Vừa đi vừa diễn giảng,

Chánh pháp thật vi diệu,

Rồi bậc Ðại Sĩ đến,

Tại khu vực rừng xoài,

Cho gọi vị Tỷ-kheo,

Tên họ Cundaka;

“Hãy gấp tư áo lại,

Trải áo cho Ta nằm”

Nghe dạy, Cundaka,

Lập tức vâng lời dạy,

Gấp tư và trải áo,

Một cách thật mau lẹ,

Bậc Ðạo Sư nằm xuống,

Thân mình thật mệt mỏi.

Tại đây Cundaka,

Ngồi ngay ngắn trước mặt.

Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

– Này Ananda, rất có thể có người làm cho thợ rèn Cunda hối hận: “Này Hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho Ông, thật là tai hại cho Ông, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Ông cúng dường, và nhập diệt”. Này Ananda, cần phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của thợ rèn Cunda: “Này Hiền giả, thật lợi ích cho bạn, thật là công đức cho bạn, vì được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường, và nhập diệt. Nay Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tôi tự thân lãnh thọ lời nói này của Thế Tôn: “Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một di thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Thế nào là hai? Một là, bữa ăn trước khi Như Lai chứng Vô thượng Chánh Ðẳng Giác; hai là, bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử”. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưỏng tuổi thọ; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng an lạc; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng danh tiếng; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng cõi Trời; nhờ hành động này, Tôn giả Cunda sẽ được hưởng uy quyền”.

Này Ananda, cần phải làm cho thợ rèn tiêu tan hối hận.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu ý nghĩa này, liền thốt lời cảm khái như sau:

4. Công đức người bố thí,

Luôn luôn được tăng trưởng,

Trừ được tâm hận thù,

Không chất chứa chế ngự,

Kẻ chí thiện từ bỏ,

Mọi ác hạnh bất thiện,

Diệt trừ tham, sân, si.

Tâm giải thoát thanh tịnh.

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state