Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tôn giả Mālunkyā
Mālunkyāputta Thera (v.l. Mālunkyaputta, Mālukyaputta). Son of the assessor (agghāpanika) of the king of Kosala, his mother being Mālunkyā. He was religious by nature, and, when he came of age, became a Paribbājaka. Later, he heard the Buddha preach and joined the Order, becoming an Arahant (ThagA.i.446f). The Theragāthā contains two sets of verses attributed to him: one (vv. 399 404) spoken on his visit to his home after attaining arahantship when his people tried to lure him back by a great display of hospitality; the other* in connection with a brief sermon preached to him by the Buddha before he became an Arahant. The Thera asked the Buddha for a doctrine in brief and the Buddha gave him one. The verses contain a detailed account of the stanzas which were only outlined to him by the Buddha.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:658

Các tên gọi khác

Mālunkyāputta Thera (v.l. Mālunkyaputta, Mālukyaputta). Son of the assessor (agghāpanika) of the king of Kosala, his mother being Mālunkyā. He was religious by nature, and, when he came of age, became a Paribbājaka. Later, he heard the Buddha preach and joined the Order, becoming an Arahant (ThagA.i.446f). The Theragāthā contains two sets of verses attributed to him: one (vv. 399 404) spoken on his visit to his home after attaining arahantship when his people tried to lure him back by a great display of hospitality; the other* in connection with a brief sermon preached to him by the Buddha before he became an Arahant. The Thera asked the Buddha for a doctrine in brief and the Buddha gave him one. The verses contain a detailed account of the stanzas which were only outlined to him by the Buddha.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+

Xuất hiện Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Trung Bộ 63.Tiểu Kinh Mālunkyā (Cula Mālunkyā sutta) và Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Trung Bộ 64.Ðại Kinh Mālunkyā (Mahā Mālunkyā sutta)

Mālunkyāputta Thera (v.l. Mālunkyaputta, Mālukyaputta). Son of the assessor (agghāpanika) of the king of Kosala, his mother being Mālunkyā. He was religious by nature, and, when he came of age, became a Paribbājaka. Later, he heard the Buddha preach and joined the Order, becoming an Arahant (ThagA.i.446f). The Theragāthā contains two sets of verses attributed to him: one (vv. 399 404) spoken on his visit to his home after attaining arahantship when his people tried to lure him back by a great display of hospitality; the other* in connection with a brief sermon preached to him by the Buddha before he became an Arahant. The Thera asked the Buddha for a doctrine in brief and the Buddha gave him one. The verses contain a detailed account of the stanzas which were only outlined to him by the Buddha.

In the Majjhima Nikāya are two suttas -  the Cūla Mālunkyā and the Mahā, Mālunkyā (this is referred to at Mil. 144) -  both evidently preached before Mālunkyāputta's attainment of arahantship, because in both the Buddha speaks disparagingly of him.

* vv. 794-817; the reference is probably to the Mālunkyāputta Sutta of A.ii.248; see also S.iv.72, where the verses are quoted in full. There the monk is described as a broken down old man, far on in years. The Commentators (AA.ii.582 and SA.iii.20) add that he had, in his youth, neglected the detailed teaching and fallen back, through love of possessions.


Mālunkyāputta Sutta. Mālunkyāputta comes to the Buddha in his old age and asks for a teaching in brief. The Buddha first chides him for having wasted his opportunities, but then tells him of the four ways in which craving arises and the advantages of destroying it.

Mālunkyāputta retires into the forest and shortly after becomes an arahant. A.ii.248f.; AA.ii.582f.; cp. S.iv.72f. and SA.iii.20f.

 

NỘI DUNG KINH NHỎ MÀLUNKYÀPUTTA

1. Tôn giả Màlunkyàputta thường bị vướng mắc vào tư duy ngã tính nên đặt ra mười vấn đề siêu hình bạch hỏi Thế Tôn:

(2) 1.1. Thế giới là thường còn hay vô thường?

(2) 1.2. Thế giới là hữu biên hay vô biên?

(2) 1.3. Sinh mạng và thân thể là một hay là khác?

(2) 1.4. Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết?

(1) 1.5. Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?

(1) 1.6. Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?

Nếu Thế Tôn không trả lời mười câu hỏi trên thì tôn giả sẽ hoàn tục.

2. Thái độ của Như Lai đối với mười câu hỏi siêu hình ấy là không trả lời vì các vấn đề ấy thuộc hý luận, không liên hệ đến mục đích của đời sống phạm hạnh; dù có quan điểm như thế nào thì vấn đề sanh, lão, bệnh, tử vẫn còn nguyên ở đó, chưa được giải quyết. Như Lai xác định: “Như Lai chỉ nói khổ và con đường diệt khổ “


Phật giáo nguyên thủy/ Kinh tạng Pali/ Kinh Tương Ưng Bộ// IV. THIÊN SÁU XỨ/ 35. TƯƠNG ƯNG SÁU XỨ/ PHẦN HAI: NĂM MƯƠI KINH THỨ HAI/ X. PHẨM TỪ BỎ

II. KINH MĀLUKYAPUTTA (Mālukyaputtasutta)46 (S. IV. 72)
95. Rồi Tôn giả Mālukyaputta đi đến Thế Tôn...
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mālukyaputta bạch Thế Tôn:
– Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh , không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần .
– Ở đây, này Mālukyaputta, nay Ta nói gì với các Tỷ-kheo trẻ tuổi, khi ông là một Tỷ-kheo già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng , đã đến cuối cuộc đời , lại yêu cầu Ta giáo giới một cách vắn tắt?
– Bạch Thế Tôn, dầu cho con già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng , đã đến cuối cuộc đời , mong Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Mong Thiện Thệ hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Chắc chắn con sẽ hiểu ý nghĩa lời Thế Tôn giảng. Chắc chắn con sẽ trở thành người thừa tự pháp của Thế Tôn.
– Ông nghĩ thế nào, này Mālukyaputta? Các sắc do mắt nhận thức , ông không thấy, trước đây ông không thấy, nay ông không thấy, và ông không muốn thấy; ở đây, đối với chúng, ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Các tiếng do tai nhận thức , ông không nghe, trước đây ông không nghe, nay ông không nghe, và ông không muốn nghe; ở đây, đối với chúng, ông có lòng dục, tham hay khát ái hay không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Các hương do mũi nhận thức , ông không ngửi, trước đây ông không ngửi, nay ông không ngửi, và ông không muốn ngửi; ở đây, đối với chúng, ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Các vị do lưỡi nhận thức , ông không nếm, trước đây ông không nếm, nay ông không nếm, và ông không muốn nếm; ở đây, đối với chúng, ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Các xúc do thân nhận thức , ông không cảm thọ , trước đây ông không cảm thọ , nay ông không cảm thọ , và ông không muốn cảm thọ ; ở đây, đối với chúng, ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Các pháp do ý thức nhận thức , ông không nhận thức , trước đây ông không nhận thức , nay ông không nhận thức , và ông không muốn nhận thức ; ở đây, đối với chúng, ông có lòng dục, tham hay khát ái không?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Và ở đây, này Mālukyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, sẽ chỉ nghe được với những tiếng nghe được , sẽ chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, sẽ chỉ nhận biết được đối với những vật có thể nhận biết được.
Vì rằng, này Mālukyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, sẽ chỉ nghe được với những tiếng nghe được , sẽ chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, sẽ chỉ nhận biết được đối với những vật có thể nhận biết được. Cho nên, này Mālukyaputta, ông không có vì cái ấy. Do vì, này Mālukyaputta, ông không có vì cái ấy, nên ông không có: “Ở nơi đây.” Do vì, này Mālukyaputta, ông không có: “Ở nơi đây”, do vậy, này Mālukyaputta, ông sẽ không có đời này, đời sau , và giữa hai đời ấy.47 Đây là sự chấm dứt khổ đau.
– Bạch Thế Tôn, lời giảng vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu một cách rộng rãi như sau:

Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ ,
Tham luyến sắc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng ,
Nhiều loại từ sắc sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy.
Như vậy khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.

Nghe tiếng, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ ,
Tham luyến tiếng an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng ,
Nhiều loại từ tiếng sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy.
Như vậy khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.

Ngửi hương, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ ,
Tham luyến hương an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng ,
Nhiều loại từ hương sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy.
Như vậy khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.

Nếm vị, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ ,
Tham luyến vị an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng ,
Nhiều loại từ vị sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy.
Như vậy khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.

Cảm xúc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ ,
Tham luyến xúc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng ,
Nhiều loại từ xúc sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy.
Như vậy khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.

Biết pháp, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ ,
Tham luyến pháp an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng ,
Nhiều loại từ pháp sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy.
Như vậy khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.

Vị ấy không tham sắc,
Thấy sắc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ ,
Không luyến sắc an trú.
Theo sắc, vị ấy thấy,
Tùy sắc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy chánh niệm hành.
Như vậy khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.

Vị ấy không tham tiếng,
Nghe tiếng, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ ,
Không luyến tiếng an trú.
Theo tiếng, vị ấy nghe,
Tùy tiếng, thọ cảm giác.
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy chánh niệm hành.
Như vậy khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.

Vị ấy không tham hương,
Ngửi hương, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ ,
Không luyến hương an trú.
Theo hương, vị ấy ngửi,
Tùy hương, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy chánh niệm hành.
Như vậy khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.

Vị ấy không tham vị,
Nếm vị, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ ,
Không luyến vị, an trú.
Theo vị, vị ấy nếm,
Tùy vị, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy chánh niệm hành.
Như vậy khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.

Vị ấy không tham xúc,
Cảm xúc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ ,
Không luyến xúc, an trú.
Theo xúc, vị ấy cảm,
Tùy xúc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy chánh niệm hành.
Như vậy khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.

Vị ấy không tham pháp,
Biết pháp, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ ,
Không luyến pháp, an trú.
Theo pháp, vị ấy cảm,
Tùy pháp, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy chánh niệm hành.
Như vậy khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, lời Thế Tôn nói vắn tắt này, con hiểu một cách rộng rãi như vậy.
– Lành thay, lành thay, này Mālukyaputta! Lành thay, này Mālukyaputta! Lời nói vắn tắt của Ta, ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi:

Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ ,
Tham luyến sắc an trú.
Vị ấy, thọ tăng trưởng ,
Nhiều loại từ sắc sanh.
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy.
Như vậy khổ tích lũy,
Được gọi xa Niết-bàn.

...
Vị ấy không tham pháp,
Biết pháp, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ ,
Không luyến pháp, an trú.
Theo pháp, vị ấy cảm,
Tùy pháp, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy chánh niệm hành.
Như vậy khổ không chứa,
Được gọi gần Niết-bàn.

Lời nói vắn tắt này của Ta, này Mālukyaputta, ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
Rồi Tôn giả Mālukyaputta, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy , đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi.
Rồi Tôn giả Mālukyaputta sống một mình, an tịnh , không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần , không bao lâu chứng được mục đích mà các thiện gia nam tử chơn chánh xuất gia , từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chính là Vô thượng cứu cánh của Phạm hạnh, ngay trong hiện tại , tự mình với thắng trí chứng ngộ , chứng đạt và an trú. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.”
Và Tôn giả Mālukyaputta trở thành một vị A-la-hán nữa.

Tham chiếu:
46 Bản Tích Lan, Thái Lan, Campuchia và PTS viết Māluṅkyaputta. Mẹ của Tôn giả là Mālunkyā, người nước Kosala. Tôn giả xuất gia khi đã lớn tuổi sau khi nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, và không lâu sau đắc quả A-la-hán. Xem SA. III. 20f; M. I. 426; A. II. 248f; AA. II. 582; ThagA. I. 446f; Mil. 144.
47 Xem S. IV. 55; KS. IV. 30 (kinh 87 ở trước).

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state