Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tôn giả Tissa ( cháu họ hàng Đức Phật )
14. Tissa Thera.-An arahant. Son of the Buddha's paternal aunt, Amitā. He entered the Order and dwelt in a woodland settlement, but he was proud of his rank and irritable and captious in his conduct. He once came to the Buddha in tears because his colleagues had teased him on account of his talkativeness (S.ii.282; MA.i.289). On another occasion, the Buddha, with his celestial eye, saw Tissa sleeping with open mouth during the siesta and, sending a ray of glory, woke him. Tissa's heart was filled with anguish and when he confessed to his colleagues his mental laziness and distaste for religion, they brought him to the Buddha. The Buddha preached to him the Tissa Sutta, at the end of which he became an arahant (Thag.v.39; but see v.1162; S.iii.106f; ThagA.i.105).
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:834

Các tên gọi khác

14. Tissa Thera.-An arahant. Son of the Buddha's paternal aunt, Amitā. He entered the Order and dwelt in a woodland settlement, but he was proud of his rank and irritable and captious in his conduct. He once came to the Buddha in tears because his colleagues had teased him on account of his talkativeness (S.ii.282; MA.i.289). On another occasion, the Buddha, with his celestial eye, saw Tissa sleeping with open mouth during the siesta and, sending a ray of glory, woke him. Tissa's heart was filled with anguish and when he confessed to his colleagues his mental laziness and distaste for religion, they brought him to the Buddha. The Buddha preached to him the Tissa Sutta, at the end of which he became an arahant (Thag.v.39; but see v.1162; S.iii.106f; ThagA.i.105).

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Tôn giả Tissa ( cháu họ hàng Đức Phật )

14. Tissa Thera.-An arahant. Son of the Buddha's paternal aunt, Amitā. He entered the Order and dwelt in a woodland settlement, but he was proud of his rank and irritable and captious in his conduct. He once came to the Buddha in tears because his colleagues had teased him on account of his talkativeness (S.ii.282; MA.i.289). On another occasion, the Buddha, with his celestial eye, saw Tissa sleeping with open mouth during the siesta and, sending a ray of glory, woke him. Tissa's heart was filled with anguish and when he confessed to his colleagues his mental laziness and distaste for religion, they brought him to the Buddha. The Buddha preached to him the Tissa Sutta, at the end of which he became an arahant (Thag.v.39; but see v.1162; S.iii.106f; ThagA.i.105).

In the time of Tissa Buddha he swept the leaves from the foot of the Bodhi-tree. He is evidently identical with Bodhisammajjaka of the Apadāna (Ap.ii.457f).

The Dhammapada Commentary (i.31ff) calls him Thullatissa. He entered the Order when old and became fat through idleness. He spent most of his time in the Waiting-hall draped in rich robes. Monks, taking him for a Mahā Thera, begged the privilege of performing various services for him, such as massaging his feet. But when they discovered his attainments, they reviled him and he sought the Buddha. The Buddha, however, asked him to obtain their pardon for having failed to show them due honour, and when he refused, related to him the story of Nārada and Devala.

14. Tissa Thera. - Một vị A-la-hán. Con trai của dì ruột Đức Phật, Amitā. Ngài gia nhập Tăng đoàn và sống trong một khu định cư trong rừng, nhưng ngài tự hào về địa vị của mình và cáu kỉnh, hay bắt bẻ trong hành vi. Có lần ngài đến gặp Đức Phật trong nước mắt vì các bạn đồng tu trêu chọc ngài vì tính nói nhiều (S.ii.282; MA.i.289). Trong một dịp khác, Đức Phật, với thiên nhãn, nhìn thấy Tissa ngủ há miệng trong giờ nghỉ trưa và chiếu một tia hào quang đánh thức ngài. Lòng Tissa tràn ngập đau khổ và khi ngài thú nhận với các bạn đồng tu về sự lười biếng tinh thần và chán ghét tôn giáo của mình, họ đã đưa ngài đến gặp Đức Phật. Đức Phật đã thuyết giảng cho ngài bài kinh Tissa, sau khi nghe bài kinh này ngài đã trở thành một vị A-la-hán (Thag.v.39; nhưng xem v.1162; S.iii.106f; ThagA.i.105).

Vào thời Đức Phật Tissa, ngài đã quét lá dưới gốc cây Bồ Đề. Ngài rõ ràng giống hệt với Bodhisammajjaka trong Apadāna (Ap.ii.457f).

Chú giải Dhammapada (i.31ff) gọi ngài là Thullatissa. Ngài gia nhập Tăng đoàn khi đã già và trở nên béo phì vì lười biếng. Ngài dành phần lớn thời gian trong nhà khách, khoác trên mình những chiếc áo choàng sang trọng. Các vị tỳ kheo, tưởng ngài là một vị Mahā Thera, đã cầu xin được làm nhiều việc cho ngài, chẳng hạn như xoa bóp chân. Nhưng khi họ phát hiện ra những thành tựu của ngài, họ đã mắng nhiếc ngài và ngài đã tìm đến Đức Phật. Tuy nhiên, Đức Phật đã xin ngài tha thứ vì đã không tôn trọng họ đúng mức, và khi ngài từ chối, Ngài đã kể cho ngài nghe câu chuyện về Nārada và Devala.

 

II. Tissa (Tạp 10, Ðại 2,71a) (S.iii,106)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Tissa, cháu trai Thế Tôn, nói với một số đông Tỷ-kheo:
— Này chư Hiền, thân ta như bị say vì vị ngọt (nặng nề và bại hoại). Ta không thấy rõ các phương hướng. Ta không phân biệt được các pháp. Thụy miên, hôn trầm xâm chiếm tâm ta và tồn tại. Ta sống Phạm hạnh không còn thoải mái, và ta nghi ngờ đối với các pháp.
3) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
4) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
— Bạch Thế Tôn, Tôn giả Tissa, cháu trai Thế Tôn, có nói với một số đông Tỷ-kheo: “Này chư Hiền, thân ta như bị say vì vị ngọt (nặng nề và bại hoại). Ta không thấy rõ các phương hướng. Ta không phân biệt được các pháp. Thụy miên, hôn trầm xâm chiếm tâm ta và tồn tại. Ta sống Phạm hạnh không còn thoải mái, và ta nghi ngờ đối với các pháp”.
5) Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:
— Ðến đây, này Tỷ-kheo! Hãy nhân danh Ta, gọi Tỷ-kheo Tissa: “Hiền giả Tissa, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!”
6) — Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Tissa; sau khi đến, nói với Tôn giả Tissa:
— Hiền giả Tissa! Bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả.
7) — Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Tissa vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
8) Thế Tôn nói với Tôn giả Tissa đang ngồi một bên:
— Có thật chăng, này Tissa, Ông đã nói như sau cho một số đông Tỷ-kheo: “Này chư Hiền, thân ta như bị say vì vị ngọt… và ta nghi ngờ đối với các pháp”?
— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
9) — Ông nghĩ thế nào, này Tissa? Ðối với người chưa ly tham, chưa ly dục, chưa ly ái, chưa ly khát, chưa ly nhiệt tình, chưa ly khát ái đối với sắc, thời khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
— Thưa có, bạch Thế Tôn.
10-13) — Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa! Như người chưa ly tham đối với sắc… đối với thọ… đối với tưởng… Như người chưa ly tham đối với các hành, thời khi các hành ấy biến hoại, đổi khác, có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
— Thưa có, bạch Thế Tôn.
14) — Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa! Như người chưa ly tham đối với thức, người chưa ly tham, chưa ly dục, chưa ly ái, chưa ly khát, chưa ly nhiệt tình, chưa ly khát ái đối với thức, thời khi thức ấy biến hoại, đổi khác, có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
— Thưa có, bạch Thế Tôn.
15) — Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa, đối với người chưa ly tham đối với thức.
16) Này Tissa, Ông nghĩ thế nào, đối với người đã ly tham, đã ly dục, đã ly ái, đã ly khát, đã ly khát ái, đã ly nhiệt tình, đã ly khát ái đối với sắc, thời khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, sầu, bi, khổ, ưu, não có khởi lên không?
— Thưa không, bạch Thế Tôn.
17)– Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa, đối với người đã ly tham đối với sắc. Ðối với người đã ly tham, đã ly dục, đã ly ái, đã ly khát, đã ly khát ái, đã ly nhiệt tình, đã ly khát ái đối với thọ… đối với tưởng… đối với các hành… Như người đã ly tham đối với các hành, người đã ly tham, đã ly dục, đã ly ái, đã ly khát, đã ly khát ái đối với thức, thời khi thức ấy biến hoại, đổi khác, sầu, bi, khổ, ưu, não có khởi lên không?
— Thưa không, bạch Thế Tôn.
18) — Lành thay, lành thay, này Tissa! Như vậy là phải, này Tissa, đối với người đã ly tham đối với thức.
19) Này Tissa, Ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?
— Là vô thường, bạch Thế Tôn.
20-23) — Thọ… tưởng… các hành… thức là thường hay vô thường?
— Là vô thường, bạch Thế Tôn.
24-25) — Do vậy… thấy vậy… “… không còn trở lui trạng thái này nữa”. Vị ấy biết rõ như vậy.
26) Ví như, này Tissa, có hai người. Một người không giỏi về đường sá, một người giỏi về đường sá. Trong hai người ấy, người không giỏi về đường sá này hỏi người giỏi về đường sá kia về con đường. Người ấy trả lời: “Hãy đi, này Bạn, đây là con đường. Hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy một thời gian, Bạn sẽ thấy con đường ấy chia làm hai. Ở đây, hãy bỏ con đường phía trái, và lấy con đường phía mặt. Rồi đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một khu rừng rậm. Hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một đầm nước lớn. Hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một vực nước sâu. Hãy đi theo con đường ấy trong một thời gian. Sau khi đi theo con đường ấy trong một thời gian, Bạn sẽ thấy một khoảnh đất bằng khả ái!”
27) Ðây là ví dụ của Ta dùng, này Tissa, để nêu rõ ý nghĩa. Và ý nghĩa như sau:
28) Người không giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho kẻ phàm phu. Người giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
29) Con đường chia làm hai, này Tissa, là ví cho trạng thái nghi hoặc. Con đường tay trái, này Tissa, là ví cho con đường tà đạo tám ngành, tức là tà tri kiến… tà định. Con đường tay mặt, này Tissa, là ví cho con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến… chánh định.
30) Khu rừng rậm, này Tissa, là ví cho vô minh. Các đầm nước thấp, này Tissa, là ví cho các dục. Vực nước sâu, này Tissa, là ví cho phẫn nộ, ưu não. Khoảnh đất bằng phẳng khả ái, này Tissa, là ví cho Niết-bàn.
31) Hãy hoan hỷ, này Tissa! Hãy hoan hỷ, này Tissa! Ta giáo giới (cho Ông), Ta giúp đỡ (cho Ông), Ta giảng dạy (cho Ông).
32) Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn giả Tissa hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state