Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tỷ-kheo Arittha ( xưa làm nghề huấn luyện chim ưng)
1. Arittha.-A monk. He had been subjected by the Sangha to the ukkhepanīyakamma for refusal to renounce a sinful doctrine, namely, that the states of mind declared by the Buddha to be stumbling-blocks are not such at all for him who indulges in them. Arittha left the Order and would not come back until the ukkhepanīyakamma was revoked (Vin.ii.25-8).
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:642

Các tên gọi khác

1. Arittha.-A monk. He had been subjected by the Sangha to the ukkhepanīyakamma for refusal to renounce a sinful doctrine, namely, that the states of mind declared by the Buddha to be stumbling-blocks are not such at all for him who indulges in them. Arittha left the Order and would not come back until the ukkhepanīyakamma was revoked (Vin.ii.25-8).

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Religion : Group
blood : B+
Tỷ-kheo Arittha ( xưa làm nghề huấn luyện chim ưng)

1. Arittha.-A monk. He had been subjected by the Sangha to the ukkhepanīyakamma for refusal to renounce a sinful doctrine, namely, that the states of mind declared by the Buddha to be stumbling-blocks are not such at all for him who indulges in them.

Arittha left the Order and would not come back until the ukkhepanīyakamma was revoked (Vin.ii.25-8).

He was a vulture-trainer (gaddhabādhiputta) (See note in VT.ii.377).

His case is cited as that of a pācittaya-offence because he refused to give up a wrong doctrine even after the monks had three times requested him to do so (Vin.iv.135).

In spite of the ukkhepanīyakamma the Chabbaggiya monks kept company with Arittha, thereby committing a pācittaya-offence (Vin.iv.137). We find the Buddha rebuking the nun Thullanandā for associating with Arittha after the ukkhepanīyakamma (Vin.iv.218).

It was Arittha's heresy that led to the preaching of the Alagaddūpama Sutta (M.i.130ff).

In the Samyutta Nikāya (S.v.314-15), Arittha is mentioned as having said to the Buddha that he practised concentration in breathing and as having described how he did it. The Buddha, thereupon, instructs him as to how such concentration can be done perfectly and in every detail.

In the Samanatapāsādikā Arittha is mentioned in a list of enemies of the Sāsana. Sp.iv.874. 

google dịch
Arittha đã rời khỏi Tăng đoàn và không quay trở lại cho đến khi ukkhepanīyakamma bị bãi bỏ (Vin.ii.25-8).
Ông là một người huấn luyện chim kền kền (gaddhabādhiputta) (Xem chú thích trong VT.ii.377).
Trường hợp của ông được trích dẫn là phạm tội pācittaya vì ông từ chối từ bỏ một giáo lý sai lầm ngay cả sau khi các tỳ kheo đã ba lần yêu cầu ông làm như vậy (Vin.iv.135).
Mặc dù đã phạm tội ukkhepanīyakamma, các tu sĩ Chabbaggiya vẫn kết giao với Arittha, do đó phạm tội pācittaya (Vin.iv.137). Chúng ta thấy Đức Phật khiển trách ni cô Thullanandā vì đã kết giao với Arittha sau khi phạm tội ukkhepanīyakamma (Vin.iv.218).
Chính tà thuyết của Arittha đã dẫn đến việc thuyết giảng Kinh Alagaddūpama (M.i.130ff).
Trong Tương Ưng Bộ Kinh (S.v.314-15), Arittha được nhắc đến là đã nói với Đức Phật rằng ông thực hành định tâm bằng hơi thở và mô tả cách ông thực hiện điều đó. Sau đó, Đức Phật hướng dẫn ông cách thực hiện định tâm một cách hoàn hảo và chi tiết.
Trong Samanatapāsādikā, Arittha được nhắc đến trong danh sách những kẻ thù của Giáo Pháp. Sp.iv.874.">1. Arittha. - Một vị tỳ kheo. Ông đã bị Tăng đoàn áp dụng ukkhepanīyakamma vì từ chối từ bỏ một giáo lý tội lỗi, cụ thể là, những trạng thái tâm mà Đức Phật tuyên bố là chướng ngại thì hoàn toàn không phải là chướng ngại đối với người buông thả theo chúng.
Arittha đã rời khỏi Tăng đoàn và không quay trở lại cho đến khi ukkhepanīyakamma bị bãi bỏ (Vin.ii.25-8).
Ông là một người huấn luyện chim kền kền (gaddhabādhiputta) (Xem chú thích trong VT.ii.377).
Trường hợp của ông được trích dẫn là phạm tội pācittaya vì ông từ chối từ bỏ một giáo lý sai lầm ngay cả sau khi các tỳ kheo đã ba lần yêu cầu ông làm như vậy (Vin.iv.135).
Mặc dù đã phạm tội ukkhepanīyakamma, các tu sĩ Chabbaggiya vẫn kết giao với Arittha, do đó phạm tội pācittaya (Vin.iv.137). Chúng ta thấy Đức Phật khiển trách ni cô Thullanandā vì đã kết giao với Arittha sau khi phạm tội ukkhepanīyakamma (Vin.iv.218).
Chính tà thuyết của Arittha đã dẫn đến việc thuyết giảng Kinh Alagaddūpama (M.i.130ff).
Trong Tương Ưng Bộ Kinh (S.v.314-15), Arittha được nhắc đến là đã nói với Đức Phật rằng ông thực hành định tâm bằng hơi thở và mô tả cách ông thực hiện điều đó. Sau đó, Đức Phật hướng dẫn ông cách thực hiện định tâm một cách hoàn hảo và chi tiết.
Trong Samanatapāsādikā, Arittha được nhắc đến trong danh sách những kẻ thù của Giáo Pháp. Sp.iv.874.

Vị này xuất hiện trong : Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Trung Bộ 22.Kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddūpama sutta)

Ví dụ con rắn

 

Một tỳ kheo tên Arittha khởi lên tà kiến cho rằng hành vi mà Phật cấm thực sự không phải là chướng ngại (cho giải thoát). Phật quở trách ông, và nói nhiều với nhiều ví dụ đáng nhớ, Ngài nhấn mạnh những nguy hiểm của việc áp dụng sai và giải thích Pháp một cách sai lạc. Cao điểm kinh này là một trong những thiên trường luận khởi sắc nhất về vô ngã được thấy trong Kinh tạng.

 

II. TÓM TẮT

Do tỳ kheo Arittha khởi lên tà kiến "dâm dục không chướng ngại đạo như Phật đã nói." Phật quở và dạy kinh này, gồm các phần: mục đích chính của việc học Pháp; các cách nắm giữ sai lạc; nguy hiểm của dục; các kiến xứ và nguy hiểm của kiến chấp.

 

A) Phật quở Arittha xuyên tạc lời Ngài dạy. Ngài đã nhiều lần dạy về nguy hiểm của dục, vậy mà Arittha vẫn ôm giữ tà kiến "dục không chướng ngại đạo". Phật dạy, ai học pháp để hý luận và chỉ trích - như thái độ của Arittha - thì không đạt mục đích việc họ pháp và sẽ đau khổ lâu dài. Lại nữa, học pháp cần nắm vững ý nghĩa với trí tuệ, nếu nắm không vững, tức hiểu sai, sẽ vô cùng tai hại, như bắt rắn đằng đuôi bị rắn quay đầu cắn. Phật ví dụ pháp Ngài dạy như chiếc bè để qua sông, không phải để ôm giữ. Ngay cả Pháp cũng nên bỏ, huống hồ phi pháp [như các dục].

 

B) Kế tiếp Ngài dạy sáu kiến xứ, năm kiến xứ đầu là 5 uẩn tức nội thân, kiến xứ thứ sáu là ngoại giới hay đối tượng của năm uẩn, những gì được thấy, nghe, cảm, biết (kiến văn giác tri) qua sáu giác quan. Tất cả cần phải chân chính thấy là không phải "tôi", "của tôi" hay "tự ngã của tôi". Thấy như vậy gọi là thấy như thật với trí tuệ, sẽ đoạn trừ tham ái chấp thủ, đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Nếu thấy có "tôi" và "của tôi" thì sẽ đau khổ khi mất mát do vô thường, biến hoại. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì đã vô thường, khổ thì không nên xem là "tôi" và "của tôi". Trong sáu kiến xứ, nếu thấy không gì là tôi hay của tôi, thì gọi là "xả pháp", trong khi phần trên nói dạy từ bỏ dục gọi là "xả phi pháp".

 

C) Vì bất cứ gì ta yêu mến đều không bền, thay đổi, nên "dục thủ" là khổ. Kiến thủ, Ngã luận thủ - chấp có ngã - cũng vậy đều là những hình thức chấp ngã, đều đưa đến khổ.

 

 


Trích thêm :

  • Chương 54: Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra
  • I: Phẩm Một Pháp

54.6. Ariṭṭha

Tại Sāvatthi. Tại đấy, Thế Tôn … nói như sau:

—Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy tu tập niệm hơi thở vô, hơi thở ra.

Khi được nói vậy, Tôn giả Ariṭṭha bạch Thế Tôn:

—Bạch Thế Tôn, con có tu tập niệm hơi thở vô, hơi thở ra.

—Này Ariṭṭha, Ông tu tập niệm hơi thở vô, hơi thở ra như thế nào?

—Bạch Thế Tôn, đối với các dục (kàma) quá khứ, con đoạn trừ dục tham (kàmacchanda). Ðối với dục tương lai, con từ bỏ dục tham. Ðối ngại tưởng (pàtighasanna), đối với nội ngoại pháp, được khéo nhiếp phục nơi con. Chánh niệm, con thở vô. Chánh niệm, con thở ra. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm hơi thở vô, hơi thở ra.

—Ðây cũng là niệm hơi thở vô, hơi thở ra, này Ariṭṭha, nhưng Ta tuyên bố là không phải. Này Ariṭṭha, Ta sẽ nói cho Ông như thế nào là niệm hơi thở vô, hơi thở ra, được phát triển, được làm cho viên mãn. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

—Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ariṭṭha vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

—Này Ariṭṭha, niệm hơi thở vô, hơi thở ra được phát triển, làm cho viên mãn như thế nào?

Ở đây, này Ariṭṭha, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi kiết-già: … “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

Như vậy, này Ariṭṭha, niệm hơi thở vô, hơi thở ra được phát triển, được làm cho sung mãn.

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state