Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

Xem Nhân vật

Bạn đang xem : Công giáo (catholicity)

student dp

Công giáo (catholicity)

ID:5

Class:4

Section:A

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Không xác định
Religion : Group
blood : B+

Other Information

Công giáo ra đời vào thế kỷ thứ I SCN tại vùng Palestin. Chúa Giêsu, người sáng lập ra Công giáo là người thuộc dân tộc Do Thái. Theo truyền thuyết, cha nuôi của Chúa Giêsu tên là Giuse, mẹ là bà Ma-ri-a, mang thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm. Chúa Giêssu sinh năm thứ nhất SCN, năm 30 tuổi Chúa Giêsu bắt đầu truyền đạo. Trong quá trình truyền giáo, Chúa Giêsu luôn bị những người Do Thái đả kích, phê phán và ghen ghét; bị nhà cầm quyền đương thời ngăn cấm và kết tội mưu phản La Mã, tử hình bằng cách đóng đinh trên giá chữ thập. Chúa Giêsu mất khi 33 tuổi.

Nội dung chi tiết

Công giáo

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Công giáo là một thuật ngữ rộng được sử dụng đặc biệt trong ngữ cảnh Kitô giáo, xuất phát từ chữ Hy Lạp καθολικός (katholikos) có nghĩa "chung" hay "phổ quát". Như vậy thuật ngữ Công giáo hay Đại công trong tiếng Việt được dùng để dịch chữ καθολικόςcatholicus hoặc catholique, với ý nghĩa đó là đạo chung, đạo phổ quát, đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào. Công giáo được dùng với một số nghĩa như sau:

"Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền"[sửa | sửa mã nguồn]

Văn kiện sớm nhất sử dụng thuật từ "Giáo hội Công giáo" được tìm thấy trong thư của thánh Ignatius thành Antiochia gửi các tín hữu ở Smyrna vào năm 107. Khi kêu gọi các Kitô hữu giữ vững sự hiệp nhất với giám mục của mình, ông viết: "Ở đâu có giám mục hiện diện, là ở đó có cộng đoàn; cũng thế, ở đâu có Chúa Giêsu Kitô, là ở đó có Giáo hội Công giáo".[1][2]

Từ Công giáo được sử dụng kể từ đó để chỉ giáo hội duy nhất, nguyên thủy của Chúa Kitô, do Chúa Kitô sáng lập và được các Tông đồ lưu truyền, và xuất hiện trong các Kinh Tin Kính Kitô giáo, đáng chú ý là Kinh Tin Kính của các Tông đồ và Kinh Tin Kính Nicea. Vì vậy, nhiều người theo Kitô giáo tuyên bố mang danh hiệu "công giáo". Những người này có thể được chia thành 2 nhóm:

  1. Các giáo hội như Công giáo RômaChính thống giáo Đông phương và Chính thống giáo Đông phương phi ChalcedonCông giáo Cổ (Old Catholic, gồm cả Công giáo Thượng cổ Ancient Catholic), Công giáo Độc lập và Công giáo Anh tuyên bố có tính tông truyền từ giáo hội tiên khởi; và
  2. Các giáo hội tin rằng họ là hậu duệ tinh thần của các Tông đồ mà không cần có nguồn gốc tổ chức từ giáo hội lịch sử.

Nhìn chung, từ "công giáo" thường được các thành viên của nhóm đầu dùng để chỉ chính họ. Thành viên của nhóm sau thường không tự gọi mình là công giáo, mặc dù họ vẫn xem mình là một phần của giáo hội "công giáo" vô hình.

Các tín đồ Kitô giáo của hầu hết các giáo phái, trong đó có hầu hết các giáo phái Tin Lành, xác nhận niềm tin vào Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Đối với những người Tin Lành, mà hầu hết tự xem là hậu duệ tinh thần của các Tông đồ (nhóm thứ 2 nhắc tới ở trên), sự xác định rõ ràng này cho thấy niềm tin của họ vào sự hợp nhất cuối cùng của mọi giáo hội dưới một Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ duy nhất, hơn là một giáo hội hợp nhất hữu hình. Trong cách dùng này, công giáo thường được viết với chữ "c" thường; đây cũng là cách viết được dùng trong Kinh Tin Kính Nicea và Kinh Tin Kính của các Tông đồ.

Các giáo hội tuyên bố mình là "Công giáo"[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo hội Công giáo Rôma[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Giáo hội Công giáo Rôma

Giáo hội Công giáo Rôma là giáo hội lớn nhất trong số các nhóm tự gọi mình là Công giáo. Một số người cũng dùng cách gọi "Công giáo Rôma" để đề cập tới thành phần chiếm đa số trong giáo hội và theo nghi thức Latinh, là Giáo hội Latinh. Như trên có đề cập, thuật ngữ "Công giáo" thường được dùng để nói về "Công giáo Rôma". Từ "Rôma" dùng để chỉ vai trò trung tâm của Giáo hoàng Rôma đối với giáo hội này và theo định nghĩa mọi tín đồ Công giáo Rôma có sự hiệp thông trọn vẹn với vị Giáo hoàng này khi là thành phần của Giáo hội Latinh (Tây phương) chiếm đa số hay thuộc 22 Giáo hội Công giáo Đông phương nhỏ hơn, chấp nhận "quyền bính trọn vẹn. tối cao, phổ quát trên Hội thánh" của Giáo hoàng tại Rôma (Điều 882 Giáo lý Hội thánh Công giáo[3]).

Các nhóm Công giáo khác[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Kitô giáo Tây phương các nhóm chính tự xem là "Công giáo" mà không có sự hiệp thông đầy đủ với Giáo hoàng là Giáo hội Công giáo Thượng cổ (Ancient Catholic, Giáo hội Công giáo Cổ tại Hà Lan), các Giáo hội Công giáo Cổ (Old Catholic, tách khỏi Giáo hội Công giáo Rôma năm 1870), Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc, các Giáo hội Công giáo Độc lập (Independent Catholic) như các nhóm ở PhilippinesBrazilBa Lan và một số thành phần của Anh giáo (Thượng Giáo hội hay Công giáo Anh). Các nhóm này giữ các niềm tin tinh thần và thực hành nghi lễ tôn giáo tương tự như Công giáo Rôma nghi lễ La-tinh mà từ đó họ xuất phát, nhưng từ chối địa vị và thẩm quyền của Giáo hoàng. Một số nhóm Công giáo Truyền thống chủ nghĩa không chấp nhận một phần hoặc toàn bộ các cải cách của Công đồng Vatican II cũng ở tình trạng tương tự.

Các sách nhập môn về Anh giáo thường đề cập đến đặc tính của truyền thống Anh giáo là bao gồm cả "Công giáo và Cải cách",[4] Anh giáo (Anglicanism) về thực hành có thể được chia thành 2 cánh chính: Thượng Giáo hội (High Church), còn được gọi là Công giáo Anh (Anglo-Catholicism), và Hạ Giáo hội (Low Church), còn được gọi là trường phái Tin lành. Mặc dù tất cả các thành tố bên trong Anh giáo đều áp dụng các tín điều như nhau nhưng Anh giáo Hạ Giáo hội xem chữ "Công giáo" theo ý nghĩa lý tưởng, còn Anh giáo Thượng Giáo hội xem đó là tên gọi cho toàn thể Giáo hội hoàn vũ mà họ là một bộ phận cùng với Công giáo Rôma và các giáo hội Chính thống giáo.

Công giáo Anh giữ nhiều nét giống với nghi lễ La-tinh của Công giáo Rôma cũng như nhiều yếu tố tinh thần có liên quan, như niềm tin và thực hành 7 bí tích, tin vào sự Hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Tiệc thánh, tôn kính Nữ Đồng trinh Maria và các thánh, gọi người đã được truyền chức là "linh mục" – được xưng hô là "cha" – mặc lễ phục trong các nghi thức lễ nhà thờ, và đôi khi gọi hy lễ Tạ ơn là lễ "Missa". Cánh Công giáo Anh của Anh giáo phát triển chủ yếu vào thế kỷ thứ 19 và có liên hệ mạnh mẽ với Phong trào Oxford. Hai người lãnh đạo nổi bật của phong trào, John Henry Newman và Henry Edward Manning, vốn đều là giáo sĩ Anh giáo, sau này gia nhập Giáo hội Công giáo Rôma và trở thành Hồng y.

Một vài giáo hội Chính thống giáo Đông phương và Chính thống giáo Đông phương phi Chalcedon tự xem là giáo hội Công giáo chân thực và hoàn vũ, và xem các giáo hội khác cùng hệ thống hoặc các giáo hội Công giáo Tây phương là lạc giáo và rời bỏ Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Thượng phụ của các giáo hội Chính thống giáo này là các tổng giám mục độc lập, nghĩa là mỗi vị không bị một vị khác giám sát trực tiếp khác (mặc dù vẫn ở dưới quyền, tuỳ theo truyền thống riêng của họ, của hội đồng giám mục hoặc quyết định chung của các thượng phụ cùng hiệp thông với nhau).

Bốn đặc tính của Giáo hội: Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo, Tông truyền

Thông tin thêm

Khái quát về đạo Công giáo, đạo Công giáo ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Nam Định | Sở Nội Vụ Nam Định (namdinh.gov.vn)

 

Khái quát về đạo Công giáo, đạo Công giáo ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Nam Định

Công giáo ra đời vào thế kỷ thứ I SCN tại vùng Palestin. Chúa Giêsu, người sáng lập ra Công giáo là người thuộc dân tộc Do Thái. Theo truyền thuyết, cha nuôi của Chúa Giêsu tên là Giuse, mẹ là bà Ma-ri-a, mang thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm. Chúa Giêssu sinh năm thứ nhất SCN, năm 30 tuổi Chúa Giêsu bắt đầu truyền đạo. Trong quá trình truyền giáo, Chúa Giêsu luôn bị những người Do Thái đả kích, phê phán và ghen ghét; bị nhà cầm quyền đương thời ngăn cấm và kết tội mưu phản La Mã, tử hình bằng cách đóng đinh trên giá chữ thập. Chúa Giêsu mất khi 33 tuổi.

Công giáo tin Chúa Giêsu xuống trần gian làm người, rao giảng Tin Mừng, chữa lành mọi bệnh tật, trừ quỉ và cuối cùng chết trên thập giá để hoàn tất công cuộc cứu chuộc tội lỗi của loài người.

I. Khái quát về Công giáo

1. Đấng thờ phụng

Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi gồm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy là Ba ngôi vị riêng biệt, nhưng cùng một Thiên Chúa duy nhất đồng bản thể và uy quyền trong Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi (Tam vị nhất thể).

2. Giáo lý Công giáo 

Giáo lý Công giáo thể hiện tập trung trong Kinh Thánh (Cựu ước và Tân ước). Hệ thống giáo lý này được hình thành, bổ sung trong nhiều thế kỷ.

Cựu ước là bộ dã sử và cũng là kinh thánh của đạo Do Thái, gồm 46 quyển, chia thành 3 loại: Sách lịch sử; Sách văn thơ; Sách tiên tri. Nội dung của Kinh Cựu ước là nói về sự tạo dựng vũ trụ và con người của Chúa trời; Về sự tích dân Do Thái, luật pháp, phong tục tập quán và truyền thống văn hoá của Do Thái; Về các Vua và dân Do Thái từ khi lập quốc đến tan rã.

Kinh Tân ước gồm 27 quyển, nội dung kể về cuộc đời, sự nghiệp, những lời răn dạy, chỉ bảo về đạo lý của Chúa Giêsu và các Thánh Tông đồ đối với con người. Kinh Tân ước chia làm 4 loại: Sách Tin mừng (hay còn gọi là Phúc âm); Sách Công vụ; Sách Thánh Thư và Sách Khải huyền được ghi lại bởi các tác giả là Lu-ca, Mác-cô, Ma-thê-ô và Gioan.

Hiện nay Kinh Thánh được dịch ra khoảng 750 ngôn ngữ khác nhau và là cuốn sách được xuất bản với số lượng nhiều nhất trên thế giới (khoảng gần một tỷ bản). Ngoài ra, Công giáo còn một số văn bản khác như các án văn của Giáo hoàng, nghị quyết của các Công đồng, về nguyên tắc có giá trị như giáo lý. Trong sinh hoạt, từ kinh Cựu ước và Tân ước, Công giáo biên soạn thành hai loại kinh: Kinh nguyện và Kinh bổn để mọi tín đồ cầu nguyện.

Trong giáo lý của đạo Công giáo có 5 tín điều cơ bản sau: Thiên chúa và sự sáng tạo thế giới của Thiên Chúa; Con người và sự sa ngã của con người; Chúa Giê-su và công cuộc cứu chuộc; Chúa Giê-su trở lại và sự phán xét cuối cùng; Thiên đường và địa ngục, thiên thần và ma quỷ. 

3. Luật lệ, lễ nghi 

Ngay từ đầu, Giáo hội Công giáo đã xây dựng được một hệ thống các luật lệ, lễ nghi khá chi tiết, cụ thể và được thống nhất thực hiện trên phạm vị toàn thế giới. Trước đây, luật lệ, lễ nghi và thiết chế của Giáo hội được ghi trong Bộ Giáo luật Ca-non(xuất bản năm 1917) gồm 2.000 điều. Ngày 25/1/1983, Giáo hội Công giáo ban hành bộ giáo luật mới thay thế cho bộ Giáo luật Ca-non gọi là bộ Giáo luật năm 1983 bao gồm 1.752 điều, chia gồm 7 quyển.

4. Một số nội dung chủ yếu về luật lệ, lễ nghi 

- Mười điều răn của Thiên Chúa (được Thiên Chúa ban cho Maisen tổ phụ của dân Do Thái và được khắc vào bia đá để làm luật pháp cai trị dân Do Thái): 1. Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự; 2. Không được lấy danh Thiên Chúa để làm những việc tầm thường; 3. Giành ngày chủ nhật để thờ phụng Thiên Chúa; 4. Thảo kính cha mẹ; 5. Không được giết người; 6. Không được tà dâm; 7. Không được gian tham lấy của người khác; 8. Không được làm chứng dối, che dấu sự gian dối; 9. Không được ham muốn vợ (hoặc chồng) người khác; 10. Không được ham muốn của cải trái lẽ.

- Sáu điều răn của Giáo hội: 1. Xem lễ ngày chủ nhật và các ngày lễ buộc; 2. Kiêng việc xác ngày chủ nhật; 3. Xưng tội mỗi năm một lần; 4. Chịu lễ mùa phục sinh; 5. Giữ chay những ngày quy định; 6. Kiêng ăn thịt những ngày quy định.

- Bảy phép Bí tích:Một nghi lễ của Công giáo, theo đó ơn Chúa sẽ được đem đến cho các tín đồ.Trong các nghi lễ, phép bí tích là quan trọng nhất, thể hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người với Chúa. Có 7 bí tích: 1. Bí tích rửa tội; 2. Bí tích thêm sức: để củng cố đức tin kính Chúa; 3. Bí tích thánh thể hay còn gọi là phép Mình Thánh Chúa, có bánh (làm bằng bột mì) và rượu (làm bằng rượu nho) tượng trưng cho mình và máu Chúa Giê-su. Tín đồ sau khi xưng tội và được giải tội thì được chịu phép Mình Thánh; 4. Bí tích giải tội: dành cho người sám hối tội lỗi; 5. Bí tích truyền chức thánh: chỉ dành cho giám mục và linh mục đã được tuyển chọn để họ có quyền tế lễ chăn dắt dân chúa; 6. Bí tích hôn phối: là bí tích kết hợp hai tín hữu 1 nam, 1 nữ thành vợ chồng trước mặt Chúa; 7. Bí tích xức dầu bệnh nhân: là bí tích nâng đỡ bệnh nhân về phần hồn và phần xác, giúp tín đồ chịu đựng đau khổ, dọn mình trước cái chết.

5. Những ngày lễ của đạo Công giáo

Lịch Công giáo tính theo dương lịch và trong một năm có rất nhiều ngày lễ khác nhau:

Lễ trọng (lễ buộc) có 6 ngày trong năm cụ thể là:

1. Lễ Nô-el (giáng sinh) ngày 25/12.

2. Lễ phục sinh (Chúa sống lại) vào một ngày của tháng 4 (từ 21/3 - 25/4).

3. Lễ Chúa Giê-su lên trời, sau lễ phục sinh 40 ngày.

4. Lễ Chúa Thánh thần thiện xuống, sau lễ Chúa Giê-su lên trời 10 ngày.

5. Lễ Đức bà Ma-ri-a hồn và xác lên trời, ngày 15/8.

6. Lễ các Thánh, ngày 1/11.

Lễ Thông thường. Đây là những ngày lễ mà Giáo hội không buộc, nhưng tín đồ vẫn tích cực tham gia để được hưởng nhiều ơn phúc. Ngoài ra trong số các lễ thông thường còn có các lễ theo tháng hoặc theo mùa với nhiều chủ đích khác nhau.

6. Cơ cấu tổ chức 

Về cơ cấu tổ chức chung Giáo hội Công giáo được tổ chức theo 3 cấp hành chính chính thức, gồm: Giáo triều Rô-ma, Giáo phận, Giáo xứ. Có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, thống nhất, lâu dài và ổn định.

- Giáo triều Rô-ma: là cơ quan điều hành trung ương của Tòa thánhVa-ti-căn và Giáo hội Công giáo, gồm: Phủ Quốc Vụ Khanh, đặc trách những công việc thường vụ của Giáo Hội và phụ trách liên lạc các quốc gia; 09 Bộ của tòa thánh, chịu trách nhiệm về những lãnh vực nhất định của đời sống Giáo Hội; 12 Hội Đồng Tòa Thánh, là những bộ phận chuyên nghiên cứu và tìm kiếm trong những lãnh vực quan trọng, 3 Văn Phòng, giúp điều hành công việc của Tòa Thánh và quản lý tài chính, 3 Tòa Án, để giải quyết các công việc liên quan đến Xá giải, Ấn tín Tông tòa và Hôn phối.

Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, thành Vatican

- Giáo phận: Nhiều Giáo xứ hợp lại thành một Giáo phận. Giáo phận là cấp hành chính chính thức của Giáo hội trực thuộc Toà Thánh Vatican về mọi phương diện; việc thành lập, bãi bỏ, thay đổi một Giáo hội địa phương do Giáo hoàng quyết định. Cai quản Giáo phận là một Giám mục, theo Giáo luật Giám mục có tất cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi tôn giáo.

- Giáo xứGiáo xứ là đơn vị cuối cùng có tư cách pháp nhân của Giáo hội. Đứng đầu giáo xứ là một Linh mục chính xứ do Giám mục giáo phận bổ nhiệm và dưới quyền Giám mục giáo phận. Trong điều kiện thiếu Linh mục thì có thể một Linh mục cai quản nhiều giáo xứ; một giáo xứ có thể có nhiều giáo họ, trong trường hợp có nhiều linh mục thì một linh mục có thể coi sóc một hoặc nhiều giáo họ. Ngoài ra, còn có các cấp trung gian mang tính liên hiệp gồm: Giáo tỉnh, Giáo hạt. 

7. Phẩm trật của Giáo hội              

Hàng giáo sỹ trong Công giáo được hình thành theo cấp bậc rõ ràng, có ba chức thánh như: Giám mụcLinh mục và Phó tế. Ngoài ra, còn có các tước vị khác như Hồng y, Tổng Giám mục, Đức ông.

- Giáo hoàng:Giáo hoàng có nhiều danh xưng như Giáo chủ, Đức Thánh Cha, người kế vị Thánh Phê-rô, là đại diện Chúa Giê-su nơi trần thế, vị chủ chăn tối cao của toàn thể tín đồ Công giáo. Giáo hoàng có quyền tối thượng, toàn diện và trực tiếp đối với Giáo hội từ Giáo triều Va-ti-căn đến Giáo hội địa phương cơ sở. 

- Hồng y và Hồng y đoàn:Hồng ylà phẩm tước, xếp ngay sau Giáo hoàng. Các hồng y trên thế giới hợp thành Hồng y đoàn có nhiệm vụ bầu Giáo hoàng và giúp Giáo hoàng cai quản giáo hội (các Hồng y trên 80 tuổi không được bầu Giáo hoàng). 

- Tổng Giám mục: Là Giám mục đứng đầu các Tổng giáo phận.

- Giám mục: Là những người được trao cho việc coi sóc một giáo phận, có toàn quyền về mặt tôn giáo trong giáo phận đó, gọi là Giám mục Chính toà; trong một giáo phận có thể có Giám mục phó hoặc Giám mục phụ tá giúp việc cho Giám mục chính toà.

- Linh mục: Có linh mục triều là người coi sóc mục vụ ở các giáo xứ hoặc làm việc tại Tòa giám mục và linh mục dòng hoạt động trong các dòng tu.

- Phó tế: Có phó tế tạm thời và phó tế vĩnh viễn. Phó tế tạm thời là những người hướng tới chức linh mục (tức những người đã học xong chương trình đào tạo tại các đại chủng viện chờ được tấn phong làm linh mục), và phó tế vĩnh viễn là những người không hướng tới chức linh mục. Phó tế vĩnh viễn có thể là những người đã có gia đình, nhưng sau khi thụ phong nếu ngượi vợ qua đời không được lập gia đình nữa. 

Hàng giáo phẩm của đạo Công giáo nói chung rất quan trọng, là những người được thay mặt Chúa để điều hành các hoạt động của Giáo hội; là Cha thiêng liêng, Cha tinh thần không thể thiếu trong các sinh hoạt tôn giáo hàng ngày của tín đồ Công giáo.

II. Công giáo ở Việt Nam

1. Quá trình truyền giáo và phát triển

Quá trình truyền bá Công giáo vào Việt Nam bắt đầu từ các thập kỷ đầu của thế kỷ XVI (1533), song thực tế phải đầu đầu thế kỷ XVII, hoạt động truyền bá mới được tổ chức một cách có quy mô và đạt hiệu quả. Có thể phân chia quá trình truyền giáo và phát triển đạo vào Việt Nam qua 4 giai đoạn chủ yếu: giai đoạn hình thành từ đầu thế kỷ XVI đến năm 1884; Giai đoạn từ 1885-1945 (Giai đoạn thực dân Pháp đô hộ đến khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa); Giai đoạn thứ ba từ 1945-1975 (Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ); Giai đoạn thứ tư từ năm 1975 đến nay (Giai đoạn sau ngày thống nhất đất nước, cả nước tiến hành công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội). 

 Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang (Giáo phận Huế), Tỉnh Quảng Trị

Công giáo truyền vào Việt Nam, có nhiều đóng góp tích cực cho văn hóa, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, một bộ phận nhỏ tín đồ và chức sắc Công giáo bị các thế lực đế quốc lợi dụng, ảnh hưởng đến quan hệ Nhà nước và Giáo hội.

Sau năm 1975 đất nước hai miền Nam - Bắc thu về một mối, Giáo hội hai miền có nhiều điều kiện thuận lợi để tiến hành thống nhất. Năm 1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ nhất, ra Thư Chung lịch sử với đường hướng hoạt động “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam thể hiện tình cảm và trách nhiệm của người Công giáo với đất nước: Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào đối với người Công giáo không những là tình cảm tự nhiên phải có mà còn là đòi hỏi của Phúc âm. Thư chung năm 1980 cũng định ra nhiệm vụ xây dựng một nếp sống đạo mới và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc.

Công giáo Việt Nam có hơn 3.000 giáo xứ; tính đến đầu năm 2021 có 46 Giám mục, gần 6000 linh mục; khoảng 200 dòng tu, tu hội, tu đoàn với hơn 31.000 nam nữ tu sĩ, trên 7 triệu tín đồ.

2. Cơ cấu tổ chức

2.1. Hội đồng Giám mục Việt Nam là một tổ chức gồm tất cả các giám mục đang thi hành phận sự mục vụ ở các giáo phận tại Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Giám mục Việt Nam gồm Ban Thường vụ (không quy định số lượng), với các chức danh: Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó chủ tịch, Tổng thư ký, một hoặc nhiều Phó Tổng thư ký (Phó Tổng thư ký có thể là một linh mục). Có 17 Ủy ban do các giám mục phụ trách như: Uỷ ban Giám mục về Giáo Lý, về Phụng tự, về Thánh nhạc và nghệ thuật Thánh, về Giáo sĩ và chủng sinh, về Tu sĩ, về Giáo dân, về Kinh thánh, về Văn hoá, về Phúc âm hoá… Nhiệm kỳ của Hội đồng Giám mục là 3 năm. Từ ngày thành lập đến nay Hội đồng Giám mục Việt Nam đã qua 14 nhiệm kỳ. Hiện nay đang là nhiệm kỳ 14 (2019-2022), với 17 Ủy ban, 46 giáo mục, 2 Hồng y.

2.2. Công giáo Việt Nam hiện có 03 Giáo tỉnh với 27 giáo phận: Giáo tỉnh Hà Nội có 11 giáo phận: Hà Nội, Hải Phòng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hưng Hoá, Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bình, Thanh Hoá, Vinh và Hà Tĩnh. Giáo tỉnh Huế có 6 giáo phận: Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, KonTum và Buôn Mê Thuột. Giáo tỉnh Sài Gòn có 10 giáo phận: Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, giáo phận Vĩnh Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Đà Lạt, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc, Phan Thiết và Bà Rịa.

Bên cạnh tổ chức mang tính chất hành chính điều hành hoạt động của Giáo hội như giáo phận, giáo xứ, Công giáo còn có hệ thống các dòng tu. Ở Việt Nam hiện có rất nhiều dòng tu của Công giáo, theo thống kê năm 2018 của Ủy ban Tu sĩ, Hội đồng Giám mục Việt Nam có 285 dòng tu, trong đó hiện có 76 dòng tu đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động, chấp thuận thành lập.

2.3. Công giáo Việt Nam hiện có 11 cơ sở đào tạo gồm: Học viện Công giáo Việt Nam; Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội; Đại Chủng viện Đức Mẹ Vô Nhiễm Bùi Chu (Nam Định); Đại Chủng viện Thánh Tâm Thái Bình (Thái Bình); Đại Chủng viện Vinh Thanh (Nghệ An); Đại Chủng viện Huế (Thừa Thiên Huế); Đại Chủng viện Sao Biển – Nha Trang (Khánh Hòa); Đại Chủng viện thánh Giuse Thành phố Hồ Chí Minh; Đại Chủng viện thánh Giuse Xuân Lộc (Đồng Nai); Cơ sở II Đại Chủng việnThánh Giuse Xuân Lộc tại Đà Lạt (Lâm Đồng); Đại Chủng viện Thánh Quý (Cần Thơ).

III. Khái quát đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh Nam Định

Nam Định được biết đến là nơi mà đạo Công giáo phát triển mạnh mẽ bậc nhất cả nước. Theo sử sách, Nam Định là nơi có giáo sĩ Công giáo đến truyền đạo đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam (vào năm 1533 đã có những nhà truyền giáo đầu tiên tới Việt Nam, và những địa danh đầu tiên  các nhà truyền giáo đặt chân đến là : Trà Lũ (khu vực Phú Nhai ngày nay), Quần Anh (nay là Quần Phương), và Ninh Cường đều là những miền đất thuộc giáo phận Bùi Chu nằm trên địa bàn tỉnh Nam Định). Đây không chỉ là nơi đầu tiên ở Việt Nam đạo Công giáo được truyền bá, nơi đây còn nổi tiếng là mảnh đất của những nhà thờ với kiến trúc Gothic cổ kính đẹp, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa cùng với số lượng tín đồ đông và nhiều ngày lễ lơn đặc biệt của Giáo hội trong năm. Đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh bao gồm trọn vẹn giáo phận Bùi Chu và 1 phần giáo phận Hà Nội. Giáo phận Bùi Chu thuộc địa bàn 6 huyện (Xuân TrườngGiao ThủyHải HậuNghĩa HưngTrực NinhNam Trực) và một phần thành phố Nam Ðịnh (có Giáo xứ Phong Lộc và giáo xứ Khoái Đồng). Một phần giáo phận Hà Nội thuộc địa bàn thành phố Nam Định và các huyện Vụ Bản, Mỹ Lộc, Ý Yên.

Nhà thờ Phú Nhai (Giáo phận Bùi Chu)

Nhà thờ Lớn Nam Định (giáo phận Hà Nội) 

 Hiện nay, toàn tỉnh có 172 nhà thờ xứ, 492 nhà thờ họ; có 01 Giám mục, 250 Linh mục (trong đó: Giáo phận Bùi Chu: 01 Giám mục,  225 Linh mục; Giáo phận Hà Nội: 25 Linh mục); 473.051 giáo dân (trong đó: giáo phận Bùi Chu: 405.256; giáo phận Hà Nội: 67.795; chiếm gần 25% dân số toàn tỉnh); 6 dòng tu là Dòng Đa minh, Mân Côi, Thăm Viếng, Trinh Vương, Mến Thánh giá (thuộc Giáo phận Bùi Chu) và Dòng Mến Thánh giá (thuộc Giáo phận Hà Nội) với 35 cơ sở dòng, trên 800 nữ tu; có Toà Giám mục Bùi Chu và Đại chủng viện Đức Mẹ vô nhiễm Bùi Chu.

Nhà thờ Khoái Đồng (giáo phận Bùi Chu)

Nhìn chung trong những năm qua chức sắc, tín đồ đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh luôn phát huy, thực hiện tốt phương châm "tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung về tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng; thực hiện các hoạt động, sinh hoạt tôn giáo tuân thủ quy định của pháp luật, tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo và các phong trào thi đua yêu nước do địa phương phát động./.

Tài liệu Tham khảo: Bài Khái quát về Công giáo và Công giáo ở Việt Nam (Ban Tôn giáo Chính Phủ)

Ban Tôn giáo

Thông tin thêm

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state