Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

Xem Nhân vật

Bạn đang xem : Đạo tin lành

student dp

Đạo tin lành

ID:7

Class:4

Section:A

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Không xác định
Religion : Group
blood : B+

Other Information

Đạo tin lành cùng với Công giáo vốn là hai nhánh nhỏ của đạo Kitô giáo. Đây là một trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham. Đặt nền tảng trên giáo huấn, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Giêsu Kitô như được ký thuật trong Kinh thánh Tân Ước. Thuộc tôn giáo độc thần, hầu hết Kitô hữu tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba thân vị (tiếng Hy Lạp: hypostasis) gọi là Ba Ngôi.

Nội dung chi tiết

 by 

Việt Nam là một quốc gia có tôn giáo khá đa dạng như đạo phật, công giáo, đạo thiên chúa, đạo tin lành, đạo cao đài…. Mỗi tôn giáo đều có những bản sắc riêng biệt cũng như tín ngưỡng và định hướng riêng mà những người theo đạo luôn phải thực hiện theo. Đạo tin lành là một trong số những tôn giáo mặc dù số tín đồ không nhiều nhưng lại khá nổi tiếng trong nước, rất nhiều người tò mò về đạo giáo này. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ chia sẻ một số thông tin về đạo tin lành là gì để những ai quan tâm có thể hiểu thêm.

Mục lục nội dung

Nguồn gốc ra đời của đạo tin lành

Đạo tin lành cùng với Công giáo vốn là hai nhánh nhỏ của đạo Kitô giáo. Đây là một trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham.

Đặt nền tảng trên giáo huấn, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Giêsu Kitô như được ký thuật trong Kinh thánh Tân Ước. Thuộc tôn giáo độc thần, hầu hết Kitô hữu tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba thân vị (tiếng Hy Lạp: hypostasis) gọi là Ba Ngôi.

Nguon-goc-ra-doi-cua-dao-tin-lanh-35express-1

Tuy nhiên trải qua hai thiên niên kỷ, các bất đồng về thần học và giáo hội học đã hình thành các hệ phái Kitô giáo khác nhau. Thế kỷ XVI là mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản. Phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo.

Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ… Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng. Và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới: đạo Tin Lành.

 

Về nội dung cơ bản của đạo Tin lành vẫn giữ nguyên như Công giáo. Nhưng về luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo và cơ cấu tổ chức Giáo hội có nhiều thay đổi. Từ đó ảnh hưởng khá đậm nét tư tưởng dân chủ tư sản, nhấn mạnh ý chí cá nhân.

Tin Lành được truyền vào Việt Nam năm 1911. Đầu tiên, tôn giáo này chỉ được cho phép tại các vùng do Pháp quản lý và bị cấm tại các vùng khác. Đến năm 1920, Tin Lành mới được phép hoạt động trên khắp Việt Nam.

nguon-goc-ra-doi-cua-dao-tin-lanh-35express

Tổ chức của đạo Tin lành

Đạo Tin lành không lập Giáo hội duy nhất mà xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với các hình thức khác nhau tuỳ theo hệ phái và từng quốc gia. Nhà thờ đạo Tin lành thường có cấu trúc hiện đại nhưng bài trí đơn giản.

Giáo sỹ đạo Tin lành có hai chức Mục sư và Truyền đạo (Giảng sư). Các giáo sỹ vẫn có gia đình bình thường nhưng họ phải chịu sự kiểm soát của các tín đồ, không có thần quyền và vai trò tuyệt đối đối với các tín đồ.

Giáo lý cơ bản của đạo Tin lành

Cũng giống như nhiều đạo giáo khác, Đạo Tin lành cũng có những tín ngưỡng và định hướng riêng biệt. Đạo tin lành đề cao vị trí của kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản duy nhất của đức tin và sự hành đạo. Lấy kinh thánh làm giáo lý nhưng đạo Tin lành chỉ công nhận 36 trong tổng số 46 cuốn Cựu ước. Khác với Công giáo, đạo Tin lành không coi Kinh thánh là cuốn sách chỉ có một số người (giáo sĩ) được quyền kê cứu, giảng giải mà tín đồ, giáo sĩ đạo Tin lành đều có quyền sử dụng, nói và làm theo Kinh thánh.

 

giao-ly-co-ban-cua-dao-tin-lanh-35express

Đạo Tin lành tin rằng Đức mẹ Maria sinh ra Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm nhưng xem bà không phải là mẹ Thiên chúa và chỉ đồng trinh cho đến khi sinh ra Chúa. Tin có thiên sứ, các thánh tông đồ, các thánh tử vì đạo và các thánh khác nhưng không sùng bái và thờ lạy họ như trong Công giáo. Tin có Thiên đàng và Địa ngục nhưng không coi trọng đến mức dùng nó làm công cụ để khuyến khích và răn đe, trừng phạt con người.

Đạo Tin lành có một đặc điểm là không chấp nhận điều gì trái với Kinh thánh, không cho tín đồ thờ cúng tổ tiên, các lễ hội… là cái bị coi là khác điều chúa dạy. Vì lẽ đó những thành viên của nhiều dân tộc theo đạo Tin lành bị buộc phải từ bỏ tôn giáo, văn hóa truyền thống của dân tộc minh.

dao-tin-lanh-la-gi-35express

Đạo Tin lành quan tâm đến các vấn đề của cuộc sống hàng ngày như khuyên dạy con người sống văn minh, từ bỏ những hủ tục, quy định những điều cấm kỵ như không quan hệ nam nữ bất chính, không có vợ bé, không cờ bạc rượu chè, ma tuý, đánh chửi nhau… và vì thế đạo Tin lành dễ lôi kéo quần chúng theo đạo.

Nghi lễ của đạo Tin lành

Nghi lễ đạo Tin lành khá đơn giản nên những tín đồ Tin lành ít bị gò bó vào nghi thức, họ có khả năng “giao thiệp với Chúa”

  • Đạo không thờ tranh ảnh, hình tượng cũng như di vật.
  • Thánh ca trở thành phương tiện diễn đạt hàng đầu.
  • Tín đồ đạo Tin lành chỉ thừa nhận hai bí tích rửa tội và thánh thể song quan niệm và cách tiến hành nghi lễ đó cũng có nhiều nội dung khác với Công giáo.
  • Tín đồ Tin lành xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa (Công giáo phải thông qua Linh mục. Khi xưng tội, cầu nguyện tín đồ có thể ở nhà thờ, trước đám đông để sám hối, nói lên ý nguyện một cách công khai.

 

nghi-le-cua-dao-tin-lanh-35express

Trên đây là những kiến thức cơ bản về đạo tin lành, nếu bạn quan tâm đến đạo giáo này thì có thể tham khảo thêm từ những tín đồ của đạo Tin lành. Theo dõi 35express để cập nhập nhiều thông tin hay.

Bạn có thể tham khảo thêm các từ khóa liên quan tới Đạo tin lành là gì?: Tiếng anh, tiếng nhật, tiếng trung, người theo đạo tin lành, hội thánh tin lành, còn gọi là đạo gì, người theo, người đứng đầu đạo,…

Thông tin thêm

Khái quát về đạo Tin Lành (dcs.vn)

Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thứ XVI có nguồn gốc chính trị, xã hội sâu xa.

 

I. VỀ TÊN GỌI ĐẠO TIN LÀNH

Tên gọi của mỗi tôn giáo đều mang một ý nghĩa riêng, có khi nó liên quan đến một địa danh, một nhân vật sáng lập, một điển tích lịch sử hay mỗi xu hướng giáo lý, thần học. Cũng có khi tên gọi của một tôn giáo xác định mối quan hệ mang tính lịch sử... Tên gọi của đạo Tin lành, có một ý nghĩa riêng và chỉ rõ mối quan hệ giữa đạo Tin lành với các tôn giáo trong Kitô giáo.

Vào đầu Công nguyên, ở vùng Trung Cận Đông thuộc vùng đất của đế quốc La Mã xuất hiện một tôn giáo mới thờ Đấng Cứu thế - ngôi hai Thiên Chúa, tiếng Hy Lạp là Jésus Christ. Danh xưng Jésus Christ dịch qua tiếng Việt là Giê-su Ki-ri-xi-tô, gọi tắt là Giêsu Kitô; chữ Jesus dịch qua âm Hán là Gia tô; chữ Christ là Cơ đốc. Như vậy, đạo thờ Đấng Cứu thế có những tên gọi theo cách dịch khác nhau: đạo Kitô, đạo Giatô, đạo Cơ đốc. Từ tôn giáo địa phương thế kỷ IV đạo Kitô trở thành tôn giáo của đế quốc La Mã rộng lớn và thường được gọi là Catholic. Thực ra tên gọi Catholic có từ rất sớm để chỉ những cộng đồng Kitô giáo ban đầu và nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: Katholikos có nghĩa là chung (General), là thông thường (Common) hay toàn bộ (Universal). Sau này, khi Kitô giáo phân rẽ thành Công giáo Rôma, Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo thì trong nhiều trường hợp Catholic (Công giáo) vẫn chỉ toàn bộ truyền thống Kitô giáo. Ở Việt Nam, Catholic gọi là Công giáo, có một thời kỳ người Việt Nam gọi Công giáo là Thiên Chúa giáo. Gọi như vậy không đúng vì cả Chính thống giáo, Tin lành, Anh giáo đều thờ Thiên Chúa. Thấy thế, có người bổ sung thêm từ Rôma và gọi là đạo Thiên Chúa hệ Rôma. Cách gọi này có vẻ rõ hơn nhưng xem ra cũng không chuẩn xác, nên đã trở lại tên gọi chính thức của nó là: đạo Công giáo.

Đến thế kỷ XI, cụ thể là năm 1054 Ki-tô giáo diễn ra cuộc đại phân liệt lần thức nhất, một bên theo văn hoá Hy Lạp, một bên theo văn hoá La tinh, gọi là phân liệt Đông - Tây, hình thành tôn giáo mới ở phương Đông: Chính thống giáo (Orthodoxism). Tên gọi này biểu lộ quan điểm (Dox) thẳng thắn và đúng đắn (Ortho) của một "giáo thuyết về niềm tin chân thật". Đôi khi người ta gọi Chính thống giáo là Kitô giáo phương Đông. Thậm chí trong một số văn cảnh, người ta dùng các từ Đông phương, Hy Lạp, Constantinople để chỉ Chính thống giáo, các từ: Tây phương, La tinh, Rôma để chỉ Công giáo.

Thế kỷ XVI, cuộc đại phân liệt lần thứ hai diễn ra trong Công giáo, hình thành một tôn giáo mới - đạo Tin lành. Giáo hội Công giáo và phong kiến châu Âu gọi là đạo chống đối - Protestantism, khi sang Trung Quốc, Protestantism dịch qua Hán gọi là "đạo Thệ phản". Cuộc đại phân liệt lần thứ hai thực chất là cuộc cải cách tôn giáo, cho nên trong nhiều trường hợp người ta còn gọi đạo Tin lành là "đạo Cải cách" (Reformism). Đạo Tin lành truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ XX,  ở miền Bắc được gọi theo cách của người Trung Quốc là "đạo Thệ phản", ở miền Trung gọi là "đạo Giatô", ở miền Nam gọi là "đạo Huê Kỳ". Đầu những năm 20, 30 của thế kỷ XX giáo sĩ Cadman người Canada thuộc Hội Truyền giáo Cơ đốc - CMA, cùng với văn sĩ Phan Khôi dịch Kinh thánh ra tiếng Việt Nam, hai ông không dịch Phúc âm (Evangelical) là "Tin mừng" như đạo Công giáo, mà dịch là "Tin lành". Cách gọi Phúc âm là Tin lành của những người theo đạo Cải cách (Thệ phản) dần dần thành thói quen và nhất là nó phân biệt được với đạo Công giáo nên người ta gọi luôn đạo Cải cách là đạo Tin lành cho đến ngày nay.

Cùng thời gian với việc ra đời đạo Tin lành, xuất hiện một trào lưu cải cách theo cách riêng ở nước Anh hình thành Anh giáo - Angelicalsm.

Như vậy, Kitô giáo hay Cơ đốc giáo bao gồm: Công giáo (Catholic), Chính thống giáo (Orthodoxsm), Tin lành (Protestantism), Anh giáo (Angelicalism), hay nói cách khác, đạo Tin lành là "anh em" cùng một gốc với đạo Công giáo, đạo Chính thống và Anh giáo.

II. HOÀN CẢNH VÀ ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI ĐẠO TIN LÀNH

1. Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ thế XVI có nguồn gốc chính trị, xã hội sâu xa. Trước hết là sự xuất hiện của giai cấp tư sản với những yêu cầu mới về chính trị, xã hội, tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện thời Trung cổ, Giáo hội Công giáo và giai cấp phong kiến có quan hệ chặt chẽ với nhau, đạo Công giáo trở thành chỗ dựa tư tưởng cho chế độ phong kiến, Giáo hội Công giáo bị chính trị hoá trở thành thế lực phong kiến, giai cấp tư sản đã thực hiện cuộc cải cách đạo Công giáo để "tháo bỏ hào quang tôn giáo" của giai cấp phong kiến, để thu hẹp dần lực lượng và ảnh hưởng của giai cấp phong kiến, trước khi tiến hành cuộc cách mạng xã hội - cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến.

2. Đạo Tin lành ra đời thể hiện sự khủng hoảng nghiêm trọng về vai trò ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo do những tham vọng quyền lực trần thế và sự sa sút về đạo đức của hàng giáo phẩm, nhất là sau cuộc "lưu đày Babylon" (1387 - 1417). Cùng với sự khủng hoảng, uy tín ảnh hưởng của Giáo hội là sự bế tắc của nền thần học Kinh viện (hình thành từ thế kỷ XII) - cơ sở quyền lực của Giáo hội Công giáo.

3. Đạo Tin lành ra đời xét về mặt văn hoá, tư tưởng được thúc đẩy bằng phong trào Văn hóa phục hưng - chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thế kỷ XV, XVI. Với chủ trương đề cao con người, đề cao nhân tính, nhân quyền đối lại việc đề cao thần tính, thần quyền, đề cao tự do cá nhân, dân chủ và sự hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm dục vọng và sự ràng buộc của chế độ phong kiến và luật lệ Công giáo, đề cao lòng yêu nước cụ thể đối lại đề cao lòng yêu Thiên Chúa và một nước Chúa chung chung diệu vợi... Văn hoá phục hưng - chủ nghĩa nhân văn đã tạo ra chiều kích mới về văn hoá, tư tưởng, cách nhìn mới về con người và tôn giáo, làm cơ sở cho việc nảy nở và tiếp thu những tư tưởng cải cách tôn giáo.

4. Đạo Tin lành ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các phong trào chống lại quyền lực Giáo hoàng và Giáo triều Rôma từ nhiều thế kỷ trước, mà tiêu biểu là một số phong trào từ thế kỷ XII trở đi, như: phong trào Albigeois (thế kỷ XII) ở Pháp, phong trào Waldensians (thế kỷ XII) ở Pháp, phong trào John Wycilff (thế kỷ XIV) ở Anh, phong trào Jerome Savararola (thế kỷ XV) ở Ý, và nhất là phong trào Jean Huss (thế kỷ XV) ở Tiệp…

5. Nguyên nhân trực tiếp hay đúng hơn là nguyên cớ của cuộc cải cách là đời sống sa hoa hưởng lạc của hàng giáo phẩm trong giáo triều Rôma và nhất là việc giáo hoàng Leon X ra lệnh ban ơn toàn xá cho những ai dâng cúng tiền của cho Giáo hội bằng cách cho bán "bùa xá tội". Những người xướng xuất và lãnh đạo cuộc cải cách không phải ai khác là những giáo sĩ Công giáo: linh mục, tiến sĩ Thần học Martin Luther (1483 - 1546), linh mục Thomas Munzer (1490 - 1525), linh mục Jean Calvin (1509 - 1564), linh mục Ubric Zwinghi (1484 - 1531)...

Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên ở Đức vào tháng 11 năm 1517 bằng việc Martin Luther công bố 95 luận đề chống lại chức vụ giáo hoàng, giáo quyền Rôma và việc bán "bùa xá tội". Từ nước Đức, phong trào lan sang các nước Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Scốtlen, Ai-rơ-len, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy... để đến giữa thế kỷ XVII, sau cuộc chiến tranh ba mươi năm (1618 - 1648) bất phân thắng bại, gây nhiều tổn thất, cả châu Âu và giáo triều Rôma chấp nhận những người cải cách và từ đó hình thành một tôn giáo mới tách ra khỏi đạo Công giáo - đạo Tin lành.

III. QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO TIN LÀNH

Thế kỷ XVII giai cấp tư sản ở châu Âu bước lên vũ đài chính trị, tự khẳng định mình bằng một loạt cuộc cách mạng tư sản (cách mạng tư sản Anh 1640, cách mạng tư sản Pháp 1789...). Đặc biệt, sau đó giai cấp tư sản châu Âu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài để mở rộng thị trường và khai thác nguyên vật liệu. Đạo Tin lành đã khai thác triệt để hoàn cảnh chính trị, xã hội nói trên nhằm mở rộng ảnh hưởng. Nếu cuối thế kỷ XVII, mới có 30 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, đạo Tin lành có đến trên 100 triệu tín đồ. Thế kỷ XX, với hai cuộc chiến tranh thế giới (1914 - 1918, 1939 - 1945) và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ như vũ bão đã tạo môi trường thuận lợi cho đạo Tin lành phát triển mở rộng ra nhiều nước trên thế giới. Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu, sau đó truyền sang các nước Bắc Mỹ. Ở Bắc Mỹ gặp môi trường tự do, đạo Tin lành phát triển, hình thành nhiều tổ chức, hệ phái. Rồi từ Bắc Mỹ, bằng nhiều con đường, trong đó có việc nhờ dựa vào vị thế, ảnh hưởng của Mỹ, đạo Tin lành truyền trở lại châu Âu và lan toả ra toàn thế giới. Đó là con đường phát triển của đạo Tin lành, đồng thời  lý giải: cái nôi của đạo Tin lành ở châu Âu, còn trung tâm (điều hành) Tin lành thế giới ở Bắc Mỹ.

2. Một điều cần quan tâm nữa, trong quá trình phát triển, trước đây và hiện nay, một mặt khai thác điều kiện thuận lợi như nói trên, mặt khác tự bản thân đạo Tin lành rất năng động, luôn luôn đổi mới và thích nghi, đặc biệt là chủ trương "nhập thế", lấy các hoạt động xã hội làm phương tiện, điều kiện để thu hút tín đồ. Đồng thời do ra đời muộn, khi địa bàn truyền giáo ngày càng ít. Từ rất sớm, đạo Tin lành đã hướng các hoạt động truyền giáo đến vùng dân tộc thiểu số. Trên bình diện thế giới vào những thế kỷ trước, châu Á, châu Phi, châu Mỹ là những vùng xa xôi của "châu Âu văn minh". Hiện nay, đối với từng quốc gia, vùng miền núi, biên giới, hải đảo là những nơi dân tộc thiểu số sinh sống.

3. Đến nay, chỉ gần năm trăm năm kể từ khi ra đời, đạo Tin lành phát triển với tốc độ rất nhanh, trở thành một tôn giáo lớn, đứng thứ ba sau đạo Hồi giáo, Công giáo với khoảng 550 triệu tín đồ của 285 hệ phái có mặt ở 135 nước của tất cả các châu lục, trong đó tập trung ở các nước công nghiệp tiên tiến như Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ.

IV. GIÁO LÝ, LUẬT LỆ, LỄ NGHI VÀ TỔ CHỨC

Đạo Tin lành có nhiều tổ chức hệ phái. Mặc dù có những điểm khác nhau về nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội giữa các hệ phái, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở những nội dung, nguyên tắc chính. Có thể khái quát giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức của đạo Tin lành để so sánh với đạo Công giáo như sau:

1. Kinh thánh và giáo lý

 + Trước hết về Kinh thánh, cả hai tôn giáo Tin lành và Công giáo đều lấy Kinh thánh (gồm Cựu ước và Tân ước) làm nền tảng giáo lý. Đạo Tin lành đề cao vị trí của Kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất của đức tin và sự hành đạo. Đạo Công giáo lại cho rằng ngoài Kinh thánh còn có những văn bản khác như nghị quyết các Công đồng chung, các sắc chỉ, thông điệp... của Giáo hoàng, về nguyên tắc cũng có giá trị như giáo lý. Đạo Tin lành đề cao Kinh thánh một cách tuyệt đối, tất cả tín đồ và chức vụ mục sư, truyền đạo đều sử dụng Kinh thánh, nói và làm theo Kinh thánh. Đối với đạo Tin lành, Kinh thánh có vị trí cực kỳ quan trọng. Trong các trường hợp, Kinh thánh giữ vai trò như một giáo sĩ trên cả hai phương diện mục vụ và truyền giáo.

+ Giáo lý của đạo Tin lành và Công giáo về cơ bản giống nhau. Cả hai tôn giáo đều thờ Thiên Chúa, tin theo thuyết "Thiên Chúa ba ngôi" (Ngôi Một: Cha, Ngôi Hai: Con, Ngôi Ba: Thánh thần; Ngôi Hai được "lưu xuất" từ Ngôi Một, Ngôi Ba được "lưu xuất" từ Ngôi Một và Ngôi Hai); tin vũ trụ, muôn vật đều do Thiên Chúa tạo dựng và có điều khiển; tin con người do Thiên Chúa tạo dựng theo cách riêng và có phần hồn và phần xác; tin con người có tội lỗi; tin có Ngôi Hai Thiên Chúa là Giêsu Kitô xuống trần chịu nạn, chịu chết chuộc tội cho loài người; tin có Thiên thần và Ma quỷ, có Thiên đàng và Địa ngục; tin có ngày Phục sinh, Tận thế và Phán xét cuối cùng.

Tuy nhiên, có một số chi tiết trong một số tín điều truyền thống của đạo Công giáo được đạo Tin lành sửa đổi và lược bỏ tạo ra sự khác biệt nhất định giữa đạo Tin lành và Công giáo.

+ Đạo Tin lành tin có sự hoài thai Chúa Giêsu một cách mầu nhiệm của bà Maria nhưng cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu, sau đó không còn đồng trinh nữa. Thậm chí một số phái Tin lành cho rằng Kinh thánh nói Bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số người con khác một cách bình thường. Một số phái Tin lành đã trích dẫn những câu Kinh thánh nói về việc bà Maria có con thêm với ông Giuse, như trong sách Matheu ở chương 13 câu 54, 55 có nói: "... Anh em Ngài (Chúa Giêsu) có phải là Giacô, Giosep, Simson, Giuđa ?" (Matheu 13; 55,56); hoặc sách Giăng chương 2, câu 12 còn nói rõ hơn: "Sau việc đó, anh em và môn đệ Ngài (Chúa Giêsu) đều xuống thành Ca-bê-na-um" (Giăng 2; 12). Do vậy, đạo Tin lành chỉ kính trọng chứ không tôn sùng thờ lạy bà Maria như đạo Công giáo. Bà Maria chỉ có công sinh và nuôi dạy Chúa Giêsu, chứ không phải là mẹ của Thiên Chúa.

+ Đạo Tin lành tin có Thiên sứ, có các thánh Tông đồ, các Thánh tử đạo và các Thánh khác, nhưng cũng chỉ kính trọng và noi gương, chứ không tôn sùng và thờ lạy họ như đạo Công giáo. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh, hình tượng cũng như các di vật. Không tôn sùng và thực hiện hành hương đến các Thánh địa, kể cả Giêrusalem, núi Xinai, đền thánh Phêrô và Phaolô.

+ Đặc biệt, đạo Tin lành không thờ lạy các hình tượng và họ cho rằng Kinh thánh đã dạy: "Hình tượng là công việc do tay người làm ra, hình tượng có miệng mà không nói, có tai mà không nghe, có lỗ mũi mà chẳng ngửi, có tay nhưng không rờ rẫm, có chân nào biết bước đi... phàm kẻ nào làm hình tượng mà nhờ cậy nơi đó, đều giống nó" (Thi thiên 115; 4-8).

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đạo Tin lành có dùng các tranh ảnh, hình tượng trong sinh hoạt tôn giáo nhưng mang ý nghĩa tài liệu để giảng giải, truyền thụ.

+ Đạo Tin lành tin có Thiên đàng, Hoả ngục nhưng không quá coi trọng tới mức dùng nó làm công cụ khuyên thưởng răn đe, trừng phạt đối với con người. Đạo Tin lành không có Luyện ngục, nơi tạm giam các linh hồn mắc tội nhẹ đang chờ cứu vớt như đạo Công giáo. Họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến Thiên đường, Hoả ngục, không nói đến Luyện ngục.

2. Luật lệ, lễ nghi

Trong đời sống tín ngưỡng, đạo Tin lành là một tôn giáo đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin, cho rằng sự cứu rỗi chỉ đến bởi đức tin chứ không phải vì những "hình thức ngoại tại" (tức là không phải vì các luật lệ, lễ nghi). Do đó luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của đạo Tin lành đơn giản không cầu kỳ, rườm rà như đạo Công giáo.

+ Trong bảy phép Bí tích của đạo Công giáo (Rửa tội, Thêm sức, Giải tội, Thánh thể, Sức dầu, Truyền chức, Hôn phối) đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép Rửa tội (Bắptem), phép Thánh thể. Vì họ cho rằng Kinh thánh chỉ nói đến những phép đó mà thôi. Một số phái Tin lành có thêm lễ Dâng con trẻ cho Thiên Chúa, dựa theo tích trong Cựu ước rằng A-bra-ham đã dâng con trai là Y-Sác cho đức Giê-hô-va.

+ Đạo Tin lành cho rằng phép Bắptem không phải tẩy trừ tội lỗi một cách linh nghiệm mà đó là sự thay cũ đổi mới của mỗi con người, một sự liên lạc bằng lương tâm và lý trí đối với Chúa Trời. Do vậy, người chịu Bắptem phải đủ tuổi để hiểu biết các lẽ đạo, và nhất là phải ăn ở trong sạch, không được phạm tội. Nghi lễ Bắptem của đạo Tin lành được tiến hành theo lối cổ như thánh Gioan rửa tội cho Chúa Giêsu trên sông Gio-đăng bằng cách dìm cả người xuống nước, chứ không dội ít nước lên đầu một cách tượng trưng như Công giáo.

+ Nguyên thuỷ, đạo Tin lành có 3 quan điểm về Lễ Thánh thể: M. Luther tuy tuyên bố không công nhận "thuyết biến thể" nhưng lại cho rằng bánh và rượu trong Lễ Thánh thể cũng là máu thịt Chúa Giêsu, uống rượu và ăn bánh là uống máu và ăn thịt Chúa Giêsu; U.Zwingli cho rằng Lễ Thánh thể chỉ đơn thuần kỷ niệm về sự chết của Chúa Giêsu, bánh và rượu chỉ có ý nghĩa vật chất; J. Calvin dung hoà quan điểm của Luther và Zwingli, rằng rượu và bánh trong Lễ Thánh thể vừa có ý nghĩa vật chất (ở bên ngoài), vừa có ý nghĩa thuộc linh (ở bên trong). Trong quá trình phát triển, tuy các phái Tin lành còn có những quan điểm khác nhau về Lễ Thánh thể nhưng nhìn chung đều phủ nhận "thuyết biến thể" của đạo Công giáo. Đa số phái Tin lành cho rằng Lễ Thánh thể là kỷ niệm về sự chết của Chúa Giêsu chuộc tội cho loài người, qua đó nhắc nhở con người sống xứng đáng với Thiên Chúa. Lễ Thánh thể của đạo Công giáo được tiến hành với nghi thức rườm rà, tín đồ chỉ được ăn "Bánh thánh" còn "Rượu thánh" không được uống mà dành cho các giáo sĩ. Đạo Tin lành thực hiện nghi lễ Thánh thể đơn giản hơn, tất cả tín đồ và giáo sĩ cùng uống rượu và ăn bánh. Lễ Thánh thể thường được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng.

+ Ngoài hai phép Bắptem và Mình thánh, đạo Tin lành duy trì các lễ như lễ Nôel, lễ Phục sinh, lễ Dâng con trẻ cho Chúa, lễ Hôn phối và các nghi lễ khác cho người quá cố...

+ Đạo Công giáo cho rằng con người không những phải làm việc thiện mà còn phải hãm mình để chuộc tội. Đạo Tin lành lại quan niệm rằng việc chuộc tội cho loài người đã có Chúa Giêsu làm trọn rồi. Con người làm việc thiện để tỏ ra xứng đáng với Thiên Chúa. Con người phải có đức tin mới được cứu vớt.

+ Tín đồ đạo Công giáo xưng tội trong toà kín với linh mục là hình thức chủ yếu nhất, còn tín đồ đạo Tin lành xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa. Đạo Công giáo đặt ra nhiều bài kinh để cho mọi người cầu nguyện hàng ngày (quen gọi là Kinh nguyện). Đạo Tin lành chỉ tin có Kinh thánh, dùng Kinh thánh trong tất cả các sinh hoạt tôn giáo. Khi xưng tội cũng như khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin lành có thể đứng giữa nhà thờ, trước đám đông để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách công khai.

+ Nhà thờ (thánh đường) của đạo Công giáo được xây dựng tốn kém, kiến trúc đồ sộ theo lối cổ, bài trí công phu cầu kỳ và cho rằng đó là Nhà Chúa - nơi Chúa ngự một cách linh thiêng, đặc biệt, trong và ngoài nhà thờ, treo nhiều ảnh tượng. Nhưng trái lại, nhà thờ đạo Tin lành thường kiến trúc hiện đại, đơn giản, trong nhà thờ không có tượng ảnh, chỉ có cây thập giá biểu tượng Chúa Giêsu chịu nạn. Trong nhiều trường hợp đạo Tin lành chỉ sử dụng những phòng họp hoặc hội trường đôi khi một nhà tạm của tín đồ dùng để làm điểm nhóm lễ, chia sẻ lời Chúa trong Kinh thánh.

3. Chức sắc và tổ chức Giáo hội

 + Chức sắc của đạo Tin lành gồm các chức vụ: mục sư (tên gọi theo Kinh thánh) và dưới mục sư là truyền đạo (còn gọi là giảng sư). Hiện nay, Hội thánh Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đều thống nhất gọi truyền đạo là mục sư nhiệm chức. Một số phái Tin lành vẫn duy trì chức giám mục, nhất là những hệ phái chịu ảnh hưởng của Anh giáo. Chức sắc đạo Tin lành chủ yếu là nam, nhưng cũng có một số phái có tuyển chọn cả phụ nữ và nhìn chung họ không giữ chế độ độc thân. Chức sắc đạo Tin lành tuy được coi là "người chăn bày" nhưng không có thần quyền, tức là không có quyền thay mặt Thiên Chúa ban phúc, tha tội cho tín đồ, không phải là cầu nối trung gian trong mối quan hệ giữa tín đồ đạo Tin lành với đấng thiêng liêng. Quan hệ giữa giáo sĩ với tín đồ bình đẳng, cởi mở. Có hệ phái Tin lành bầu ra mục sư, truyền đạo theo thời gian. Chức sắc đạo Tin lành hoạt động dưới sự kiểm soát của tín đồ, hàng năm tín đồ bỏ phiếu tín nhiệm mục sư (hoặc truyền đạo) quản nhiệm Hội thánh cơ sở.

Đạo Tin lành chủ trương xây dựng các giáo hội độc lập với những hình thức cơ cấu khác nhau, tuỳ thuộc vào từng hệ phái và hoàn cảnh điều kiện cho phép. Có hệ phái Tin lành duy trì cơ cấu 2 cấp Trung ương và Hội thánh cơ sở (chi hội), có hệ phái Tin lành duy trì thêm cấp trung gian là Giáo khu hay Địa hạt (tương đương như giáo phận của đạo Công giáo). Nhân sự lãnh đạo các cấp giáo hội theo nhiệm kỳ thông qua bầu cử dân chủ (trực tiếp, bằng phiếu kín, từng chức danh). Thành phần lãnh đạo Giáo hội không chỉ có mục sư, truyền đạo mà có cả tín đồ tham gia. Đặc biệt, các hệ phái Tin lành đều trao quyền tự quản cho hội thánh cơ sở với tinh thần tự lập, tự dưỡng, tự truyền. Các hệ phái Tin lành không ngăn cản tín đồ, chức sắc tách ra để gia nhập các hệ phái khác hoặc đứng độc lập.

+ Đạo Tin lành thường có hai sinh hoạt về mặt tổ chức là Bồi linh và Hội đồng (đại hội đại biểu). Bồi linh còn gọi là Hội đồng linh tu được tổ chức hàng năm theo các cấp giáo hội để nâng cao trình độ giáo lý, thần học cho tín đồ, mục sư, truyền đạo. Tuỳ theo cấp tổ chức bồi linh mà thành phần tham dự khác nhau. Nếu bồi linh cấp trung ương thì chỉ có các mục sư, truyền đạo và những chức vụ chủ chốt của các chi hội. Nếu bồi linh ở cấp chi hội thì mở rộng đến các tín đồ. Đại hội đại biểu ở cấp chi hội thường họp mỗi năm một lần, gọi là Hội đồng thường niên. Hội đồng ở chi hội có nhiệm vụ tổng kết công việc trong một năm và bàn chương trình hoạt động của năm tới, bầu ban chấp sự; bỏ phiếu tín nhiệm mục sư, truyền đạo chủ tọa và bầu chọn đại biểu đi dự Đại hội đồng cấp trên (nếu trùng nhiệm kỳ của Đại hội đồng). Đại hội đại biểu trên cấp chi hội là Đại hội đồng. Thành phần tham dự Đại hội đồng là các mục sư, truyền đạo và đại biểu tín đồ được cử ở các chi hội.

Đại hội đồng tổ chức theo nhiệm kỳ để giải quyết các công việc nội bộ, xây dựng hoặc sửa đổi hiến chương (Điều lệ) và bầu nhân sự lãnh đạo giáo hội.

V. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẠO TIN LÀNH

Qua phân tích quá trình ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức giáo hội chúng tôi khái quát một số nét đặc trưng cơ bản của đạo Tin lành như sau:

1. Đạo Tin lành là tôn giáo tách ra từ đạo Công giáo ở thế kỷ XVI cùng với sự xuất hiện của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Nội dung cải cách chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng dân chủ tư sản, ý chí tự do cá nhân. Trong sinh hoạt tôn giáo, đạo Tin lành đề cao vai trò cá nhân. Trong sinh hoạt về tổ chức, đạo Tin lành đề cao tinh thần dân chủ. Các luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu tổ chức của đạo Tin lành đơn giản, nhẹ nhàng không rườm rà, gò bó như đạo Công giáo.

2. Những nội dung cải cách đã làm cho đạo Tin lành trở thành một tôn giáo có mầu sắc mới mẻ, thích hợp với giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức, trí thức... thị dân nói chung trong xã hội công nghiệp. Đặc biệt với lối sống đạo nhẹ nhàng, đề cao đức tin và vai trò cá nhân, đạo Tin lành duy trì tín ngưỡng trong mọi hoàn cảnh chính trị, xã hội, kể cả những khi bị o ép, cấm cách.

3. Đạo Tin lành còn là một tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động rất năng động, luôn đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh xã hội. Đặc biệt, đạo Tin lành tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, nhất là lĩnh vực từ thiện nhân đạo, lấy đó làm phương tiện mở rộng ảnh hưởng. Điều này tạo ra uy tín và khả năng tiếp cận, chung sống với nhiều chế độ chính trị khác nhau.

4. Ngoài tầng lớp thị dân, đối tượng truyền đạo quan trọng thứ hai của đạo Tin lành là đồng bào các dân tộc thiểu số. Đó là những vùng đất mới - nơi chưa có tôn giáo chính thống hoặc tôn giáo, tín ngưỡng cũ đang suy thoái, mất uy tín, nơi đời sống dân sinh, trình độ dân trí thấp. Truyền đạo đến những vùng này, đạo Tin lành không những phát huy lợi thế vốn có "đơn giản về luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo" mà còn nghiên cứu rất kỹ đặc điểm lịch sử, văn hoá, tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của từng dân tộc, chủ động địa phương hoá, dân tộc hoá để dễ dàng hoà nhập.

5. Ra đời, phát triển cùng với giai cấp tư sản cho nên đạo Tin lành có mối quan hệ khá chặt chẽ với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng đạo Tin lành như một thứ vũ khí trong các cuộc cách mạng tư sản ở thời kỳ đầu và việc tìm kiếm thị trường thuộc địa sau này. Ngược lại, đạo Tin lành nhờ dựa vào giai cấp tư sản để củng cố phát triển lực lượng, kể cả việc lợi dụng các cuộc chiến tranh xâm thực mà giai cấp tư sản tiến hành.

6. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ lịch sử, từng tổ chức hệ phái Tin lành, mối quan hệ nói trên có sự thay đổi ở từng nước, từng khu vực. Thời gian sau này, đạo Tin lành chịu ảnh hưởng của các xu hướng tiến bộ trên thế giới nên nhiều phái Tin lành tách dần khỏi sự kiềm tỏa của các thế lực chính trị./.

          Nguồn Ban Tôn giáo Chính Phủ

 

Thông tin thêm

Tin Lành tại Việt Nam

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tại Việt Nam, thuật ngữ Đạo Tin Lành (Evangelicalism) thường được chỉ về một nhánh tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo (Kitô giáo) thuộc phong trào Kháng Cách, để phân biệt với Giáo hội Công giáo"Tin Lành" cũng có thể coi là một cách gọi khác của "Tin Mừng" hay "Phúc Âm".

Ngay từ cuối thế kỷ 19, một nhóm tín hữu Kháng Cách người châu Âu đã đến Việt Nam để thành lập một nhà thờ tại Hải Phòng vào năm 1884, rồi thêm những giáo đoàn khác được thành lập ở Hà Nội và Sài Gòn trong năm 1902,[1] nhưng năm 1911 được xem là thời điểm đánh dấu đức tin Kháng Cách truyền đến Việt Nam khi những nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (C&MA) đặt chân đến Tourane (nay là Đà Nẵng) để thiết lập cơ sở truyền giáo tại đây.

Năm 1927Hội thánh Tin Lành Việt Nam (hỗ trợ bởi Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp) được chính thức thành lập. Chính vì đây là tổ chức thuộc Phong trào Kháng Cách được ra đời sớm nhất tại Việt Nam nên thuật ngữ "Đạo Tin Lành" cũng thường để chỉ chung về các nhóm, hệ phái Kháng Cách. Sau đó, các hệ phái Kháng Cách khác tiếp bước Hội thánh Tin Lành Việt Nam thành lập tổ chức của mình và nỗ lực rao giảng Phúc Âm, tham gia các hoạt động xã hội tại quốc gia này.[2]

Theo những ước tính khác nhau, có khoảng từ 1 triệu[3] đến hơn 1,4 triệu[4][5][6] tín hữu thuộc cộng đồng Kháng Cách tại Việt NamTin Lành được xem là một trong những tôn giáo phát triển nhanh và ổn định nhất tại Việt Nam, và số lượng tín hữu Tin Lành tại miền Bắc cũng đang gia tăng nhanh chóng.[3][7]

Trước năm 1911[sửa | sửa mã nguồn]

Từ cuối thế kỷ thứ 10, "tu sĩ Nedjran" thuộc Cảnh giáo đã đến Việt Nam trong cuộc hành trình truyền giáo sang Trung Hoa trong năm 980. Theo Geography of Earisi, ông đã đến Loukin (kinh thành Lou, có lẽ là Hoa Lư).[8][9] Tuy nhiên, không có chứng cứ cho thấy nhà truyền giáo này đã đạt được thành quả nào tại Việt Nam.[10] Đến đời Lê Anh Tông (1557-1573) khi tái thiết một ngôi đền cũ, người ta tìm thấy một "thập tự giá rất cổ" trên một bức tường của ngôi đền.[9] Những nhà truyền giáo Công giáo Rô-ma đặt chân đến Việt Nam từ thế kỷ 16, đến thế kỷ 18 Giáo hội Công giáo đã phát triển mạnh mẽ. Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa được cộng đồng Kháng Cách trên thế giới quan tâm đến.[11]

Từ thế kỷ 17, Charles Hartsingh, ở trong số những người Pháp Kháng Cách vùng Normandie làm việc cho công ty Hà Lan và Đông Ấn, thiết lập sự định cư đầu tiên của công ty trong vùng đồng bằng sông Hồng.[11] Một tín hữu Kháng Cách khác, Jean-Baptiste Chaigneau, là sĩ quan hải quân Pháp, gia nhập lực lượng của Gia Long trong nỗ lực tái thống nhất đất nước và thiết lập triều đại nhà Nguyễn.[12] Ngày 15 tháng 10 năm 1890, Alexandre Yersin, nhà khoa học và nhà thám hiểm, một tín hữu Tin Lành và là hậu duệ những người Huguenot lánh nạn sang Thụy Sĩ vì bị bách hại tôn giáo dưới triều Louis XIV, đặt chân đến Sài Gòn để làm việc trên tàu Volga theo tuyến hải hành Sài Gòn - Manila với chức trách của một bác sĩ. Năm 1891, Yersin quyết định ở lại Việt Nam. Sau nửa thế kỷ tận tụy cống hiến, ông từ trần tại Nha Trang và được an táng tại Suối Dầu vào tháng 3 năm 1943.[13]

Sau khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam, một nhà thờ thành lập năm 1884 tại Hải Phòng dành cho "các tín hữu Kháng Cách châu Âu"; sau đó có hai nhà thờ được thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn (1902), những giáo đoàn này đều phát triển tốt cho đến tháng 3 năm 1945 khi quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương và bắt giữ các công dân Pháp.[1]

Năm 1921, Mục sư P. Monet lãnh đạo một nhóm truyền giáo, với hai người Việt là Vũ Tam Thất và Đội Dương, rời Paris đến Hà Nội. Năm sau, họ thành lập Hội Sinh viên An Nam, một trung tâm sinh hoạt của sinh viên do /Tin Lành bảo trợ, hội cũng xuất bản một tạp chí song ngữ Pháp –Việt nhắm vào giới trí thức trẻ ở Hà Nội.[14] Thay vì trực tiếp truyền bá Phúc âm, nhóm truyền giáo này tập trung vào các hoạt động văn hóa như xiển dương chữ Quốc ngữ, các loại hình báo chí, và văn minh phương Tây. Mặt khác, do thiếu tài trợ tài chính cùng những hạn chế về chính trị và pháp lý (mãi cho đến năm 1937, chính quyền Pháp ở Đông Dương mới công nhận giáo hội Tin Lành), họ ngưng hoạt động. Từ đó, hoạt động của Tin Lành Pháp tại Việt Nam chỉ hạn chế trong sinh hoạt mục vụ ở Hà Nội, Hải Phòng (trước tháng 7 năm 1954) và Sài Gòn, Đà Lạt (trước tháng 4 năm 1975).[14]

Năm 1902, Thánh thơ Công hội cử Bonnet đến Tourane (nay là Đà Nẵng) để thành lập cơ sở và tuyển dụng ba nhân viên phân phối Tân Ước và các sách Phúc âm chữ Hán trong tỉnh Quảng Nam. Cho đến năm 1920, Thánh thơ Công hội được xem là tổ chức truyền bá thông điệp Cơ Đốc bằng sách in lớn nhất tại Việt Nam.[15]

Từ 1911 đến 1927[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay trong năm đầu tiên thành lập Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, nhà lãnh đạo sáng lập tổ chức này, Albert Benjamin Simpson, trong tạp chí Word, Work, and World (tháng 2 năm 1887) đã đề cập đến tình trạng "bán đảo Đông Nam Á đã bị lãng quên nhiều," và "vương quốc An Nam rộng lớn" cùng với Tây Tạng phải được xem là công trường truyền giáo tương lai.[16]

Mở đường[sửa | sửa mã nguồn]

Mục sư Hosler cử hành lễ Báp têm cho ông Nguyễn Văn Phúc, tín hữu người Việt đầu tiên, tại Đà Nẵng năm 1912

Được cho là theo yêu cầu của Simpson, trong năm 1893 David Lelacheur đã đến Sài Gòn để thực hiện một cuộc khảo sát,[17] và tường trình "cửa đã mở tại An Nam".[17] Tuy nhiên, chính quyền Pháp tại Việt Nam vẫn chủ trương thực thi Hòa ước Giáp Tuất (1874) và Hòa ước Giáp Thân (1884) chỉ cho phép những nhà truyền giáo người Pháp và người Tây Ban Nha thuộc Giáo hội Công giáo Rô-ma hoạt động tôn giáo trong xứ.[18] Simpson quyết định thành lập ngay một cơ sở truyền giáo tại Quảng Tây, Hoa Nam, vì ông tin rằng từ đó những nhà truyền giáo có thể tiến vào Việt Nam. Năm 1897, Mục sư C. H. Reeves từ Quảng Tây thực hiện một chuyến viếng thăm ngắn ngày đến Lạng Sơn.[19] Năm 1899, nhà truyền giáo R. A. Jaffray đến Hà Nội bằng cách đi dọc theo sông Hồng, nhưng không làm được gì. Vì tin rằng một người Canada nói tiếng Pháp sẽ dễ dàng hơn khi tiếp xúc với nhà cầm quyền Pháp, ông thuyết phục Sylvian Dayan và vợ đến Việt Nam năm 1902, họ được phép lưu lại Hải Phòng, nhưng một năm sau phải rời khỏi Việt Nam vì gặp phải sự chống đối quyết liệt.[20]

Thành lập cơ sở truyền giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chín năm chờ đợi và kiên trì tìm kiếm cơ hội tiến vào Việt Nam, mùa xuân năm 1911, Jaffray cùng Paul M. Hosler và G. Loyde Hughes đặt chân đến Tourane, họ nhận được sự hỗ trợ từ Bonnet, đại diện Thánh thơ Công hội tại Trung kỳ.[21] Do Hughes qua đời, chỉ còn Hosler phụ trách cơ sở truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam. Trong ba năm kế tiếp, cơ sở này được bổ sung thêm chín nhà truyền giáo, và một cơ sở mới được thành lập ở Hội An.[22] Đến đầu năm 1915, có thêm hai cơ sở tại Hải Phòng và Hà Nội.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, tháng 12 năm 1915, người Pháp ra lệnh "cấm mở thêm công cuộc truyền giáo giữa vòng người bản xứ", đóng cửa tất cả các nhà nguyện và những cơ sở truyền giáo ngoại trừ cơ sở ở Tourane, và buộc những nhà truyền giáo có tên gốc Đức phải rời khỏi nước.[23] Sau cuộc hội kiến giữa R. A. Jaffray với Toàn quyền Pháp tại Hà Nội năm 1916, thái độ nghi kỵ từ phía người Pháp được giải tỏa, những nhà truyền giáo được phép mở rộng công cuộc truyền bá phúc âm đến Nam kỳ.[24] Đến năm 1927, số nhà truyền giáo tăng gấp ba, trong đó có những người đã đóng góp đáng kể cho nỗ lực xây dựng và phát triển cộng đồng Tin Lành còn non trẻ tại Việt Nam như D. L. Jeffrey và E. F. Irwin, cả hai là người CanadaJ. D. Olsenngười Na Uy, cùng William (người Anh) và Grace Cadman (người Mỹ), hai nhân tố chính trong việc hình thành bản Kinh Thánh tiếng Việt năm 1926.[25] Các cơ sở truyền giáo đã được thành lập tại Hà Nội, Hải Phòng, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn, Biên HòaMỹ ThoVĩnh LongSa ĐécCần ThơRạch Giá, cũng như ở Phnom Penh và Battambang.[26]

Từ 1927 đến 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Thành lập giáo hội[sửa | sửa mã nguồn]

Sau 16 năm khai khẩn và gieo giống, tháng 3 năm 1927, các giáo đoàn Tin Lành rải rác ở Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ tập hợp thành một đoàn thể quốc gia với tên chính thức là Hội Tin Lành Đông Pháp.[27] Khi bản Điều lệ của Hội thánh được tu chính lần thứ nhất năm 1936, từ "Việt Nam" được thêm vào trước "Đông Pháp".[28] Đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, từ "Đông Pháp" bị loại bỏ. Năm 1950, Hội đồng Tổng Liên hội biểu quyết chọn danh hiệu chính thức của giáo hội là Hội thánh Tin Lành Việt Nam.[29]

Biểu tượng của Hội thánh Tin Lành Việt Nam

Bản Điều lệ được thông qua năm 1928 quy định cơ cấu tổ chức, chính sách, thể thức cho giáo hội, nhấn mạnh đến các lẽ đạo tái sinhthánh hóa, chữa bệnh, và sự tái lâm của Chúa Giê-xu. Bốn lẽ đạo này được thể hiện trên biểu tượng của Hội thánh Tin Lành Việt Nam qua hình ảnh của thập tự giá, chim bồ câu, chiếc bình, mão miện, được khắc trong con dấu chính thức của Hội thánh Tin Lành Việt Nam trong mọi cấp và mọi ngành cho đến ngày nay.[30] Điều lệ cũng quy định hệ thống tổ chức của Hội thánh có ba cấp: Hội thánh địa phương, Địa hạt Liên hội, và Tổng Liên hội.[31] Mỗi hội thánh địa phương có quyền đầy đủ để tự điều hành như mời quản nhiệm, bầu cử ban chấp sự, xử lý các thuộc viên, tạo lập và sử dụng ngân quỹ để cấp dưỡng cho quản nhiệm, chi tiêu cho các dự án địa phương cũng như đóng góp cho địa hạt và tổng liên hội.[32] Địa hạt liên hội tập hợp các hội thánh địa phương trong một khu vực, mỗi năm tổ chức một kỳ hội đồng quy tụ những đại biểu được các hội thánh địa phương bầu chọn để "cai trị và dự phần công việc của Hội thánh trong địa hạt riêng mình, quyết định những vấn đề liên quan tới lợi ích chung của cả hạt." Hội đồng cũng bầu cử chức vụ Chủ nhiệm và Ban Trị sự Địa hạt.[33] Quyền tối hậu của Hội thánh Tin Lành thuộc về toàn thể tín hữu, được ủy thác cho các đại biểu mà họ lựa chọn giữa vòng các thuộc viên hội thánh địa phương để tham dự hội đồng chung (thường được gọi là Hội đồng Tổng Liên hội).[34] Hội đồng Tổng Liên hội được xem là nhánh lập pháp của giáo hội, trong khi quyền hành pháp được trao cho Ban Trị sự Tổng Liên hội, đứng đầu là Hội trưởng.[35] Hội đồng bầu Mục sư Hoàng Trọng Thừa vào chức vụ Hội trưởng.[36]

Trong thập niên 1920, các hoạt động truyền bá Tin Lành bị hạn chế và cấm đoán. Theo thông tri ngày 26 tháng 1 năm 1925 của Hội đồng Cơ mật, "Theo điều khoản thứ 13 của Hòa ước năm 1884, chỉ Giáo hội Công giáo La Mã có quyền truyền giảng trong xứ chúng ta. Các Giám mục, Linh mục, và giáo sư thuộc giáo hội Công giáo La Mã là những người duy nhất có phép giảng đạo của họ…Rõ ràng từ nay trở đi, tôn giáo mới (Tin Lành) và "Cao Đài" phải bị cấm tỏ tường không được truyền giảng hoặc lưu hành tại Trung kỳ. Nếu người nào bất tuân bản chỉ dụ này, hãy hình phạt hắn theo pháp luật."[37] Thông tri này cùng các biện pháp cấm đạo như bắt giữ một số mục sư, truyền đạo, đe dọa các tín hữu và buộc họ đốt bỏ Kinh Thánh xảy ra tại một số địa phương đã làm dấy lên phản ứng của cộng đồng Kháng Cách Pháp tại nước Pháp và Đông Dương. Tháng 1, 1929, những nhà lãnh đạo Tin Lành Pháp gởi kháng thư cho Toàn quyền Pierre Pasquier khi ông mới nhậm chức, đồng thời Liên minh Tin Lành Pháp đưa vấn đề này ra trước Hạ viện.[38] Từ thập niên 1930 trở đi, các biện pháp hạn chế và cấm đoán dần dần được gỡ bỏ, mặc dù dưới sự cai trị của Pháp và triều đình Huế, Hội thánh Tin Lành Việt Nam chưa bao giờ được dành những quyền của một đoàn thể tôn giáo quốc gia như Công giáo Rô-ma được hưởng từ năm 1884.[39]

Tự trị, Tự lập, Tự truyền bá[sửa | sửa mã nguồn]

Tín hữu Tin Lành ở Hà Nội năm 1930. Dòng chữ Nho phía trên ghi "An Nam Hà Nội Phúc âm Hội"

Từ năm 1928 đã đạt được một sự đồng thuận giữa Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp và Hội thánh Tin Lành Việt Nam về định hướng phát triển giáo hội trên nguyên tắc: tự lập, tự trị, và tự truyền bá, tập chú vào nỗ lực chung giúp hội thánh bản địa trở nên một giáo hội độc lập trong thời gian sớm nhất.[40] Sự xác tín của những nhà lãnh đạo hội thánh bản địa rằng "tự lập là con đường độc nhất dẫn đến sự độc lập và tự trị hoàn toàn, là nền tảng lành mạnh nhất cho Hội thánh tăng trưởng và truyền giảng trong một xứ sở mà cảm xúc bài ngoại thật mạnh sau sự chinh phục của người Pháp… sự xác tín này được lập nền trên giáo huấn của Kinh Thánh,"[41] đã nhận được sự đáp ứng thuận lợi từ các tín hữu.

Phù hợp với truyền thống Kháng Cách – dành một vị trí quan trọng và tích cực cho tín hữu trong mọi lãnh vực hoạt động của giáo hội – tín hữu Tin Lành thường chủ động trong nỗ lực thành lập và phát triển giáo đoàn, đóng góp tiền bạc và nhân lực để xây dựng lễ đường và các cơ sở vật chất cho hội thánh địa phương. Năm 1926, tại Mỹ Tho, một nhà thờ đã được xây dựng hoàn toàn bởi sáng kiến và sự đóng góp tài lực và nhân lực của tín hữu,[42] từ đó khởi phát một khuynh hướng lành mạnh trong các giáo đoàn trên khắp đất nước. Thể chế dân chủ cũng được ấn định trong bản Điều lệ năm 1928 thể hiện nguyên tắc tự trị, theo đó quyền tự trị được chia sẻ bởi tất cả thuộc viên hội thánh địa phương đã chịu lễ báp têm, cũng như các đại biểu của họ khi tham dự những hội đồng cấp địa hạt và cấp tổng liên hội.[43]

Từ 1942 đến 1954[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù không xảy ra chiến tranh trên bộ tại Việt Nam trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế của đất nước bị thiệt hại nặng nề, rồi nạn đói năm Ất Dậu, 1944-1945 làm cho tình hình càng tồi tệ hơn. Cộng đồng Tin Lành còn non trẻ đang trên đường xây dựng một giáo hội tự lập, tự trị cũng bị tác động mạnh. Vì khó khăn kinh tế, nhiều giáo đoàn không thể cấp dưỡng đầy đủ cho các quản nhiệm, và một số nhà thờ bị buộc phải đóng cửa. Trường Kinh Thánh Đà Nẵng cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.[44] Tuy nhiên, trong vòng hội thánh dấy lên tinh thần tương thân tương trợ, đặc biệt là khi quyên góp trợ giúp tín hữu miền Bắc đang gánh chịu nạn đói.[45]

Tháng 8, 1942, Hội đồng Tổng Liên hội tổ chức tại Đà Nẵng bổ nhiệm ban quản trị tài sản giáo hội, và bầu Mục sư Lê Văn Thái làm Hội trưởng thay thế Mục sư Lê Đình Tươi đang đau nặng.[46]

Sau khi người Nhật chiếm đóng Việt Nam, dù bị hạn chế trong đi lại, những nhà truyền giáo vẫn được hưởng sự tự do tương đối, Trường Kinh Thánh và Nhà in Tin Lành vẫn tiếp tục hoạt động. Tháng 4, 1943, người Nhật ra lệnh cho chính phủ Pháp tập trung tất cả nhà truyền giáo để quản thúc trong một trại binh ở Mỹ Tho.[47] Đến tháng 9, sau khi một số nhà truyền giáo và trẻ em được hồi hương theo một thỏa thuận giữa hai chính phủ Mỹ-Nhật, chỉ còn 17 người bị quản thúc cho đến khi chiến tranh kết thúc, trong số đó có một người qua đời trong trại trập trung vì bị mắc bệnh mà không được chữa trị.[48] Trong thời gian bị cầm giữ, Mục sư William C. Cadman tiếp tục biên soạn cuốn Thánh Kinh Từ điển, trong khi Mục sư J. D. Olsen hiệu đính quyển Thần đạo học, và một số sách khác của ông.[49]

Sau khi Nhật đầu hàng, các nhà truyền giáo được trả tự do, về Sài Gòn và hồi hương, ngoại trừ các ông bà E. F. Irwin, D. I. Jeffrey, và Cadman, những người này quyết định ở lại để giúp đỡ tín hữu Việt Nam. Cuối tháng 11 năm 1945 chỉ còn ông bà Cadman ở lại, nhưng sau khi bà Cadman từ trần trong tháng 4 năm 1945, William Cadman là "nhà truyền giáo duy nhất ở trong xứ và là người điều hành duy nhất của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp tại Đông Dương".[50]

Sự luận giải Kinh Thánh cách sai lệch của quản nhiệm Nhà thờ Vinh, Trần Như Tuân, một mục sư học thức và có sức thu hút, đã gây chia rẽ trong hội thánh trong một thời gian. Nhằm ấn định ngày Chúa Giê-xu tái lâm, ông Tuân thực hiện những phép tính rắc rối cũng như tham khảo nhiều nguồn tài liệu và Kinh Thánh để tuyên bố rằng ngày Chúa tái lâm sẽ là 30 tháng 9 năm 1944. Ngày này qua đi mà không xảy ra biến cố nào, ông lại khẳng định Chúa sẽ trở lại ngày 1 tháng 10 năm 1945. Ông đến nhiều nơi để thuyết giảng, tranh luận, và thuyết phục được nhiều người, mặc dù những nhà lãnh đạo giáo hội đã bác bỏ[51] và cấm truyền bá giáo lý ấy.[52]

Từ năm 1948 đến 1950 được xem là giai đoạn củng cố và phục hồi của giáo hội sau khi gánh chịu nhiều mất mát do chiến tranh và những biến động xã hội, thì trong thời kỳ 1951 -1954 cộng đồng Tin Lành phát triển và mở rộng công cuộc truyền bá phúc âm. Nhiều giáo đoàn mới được thành lập trên khắp xứ sở. Trường Kinh Thánh Đà Nẵng tập trung đào tạo nhân sự cho giáo hội. Chương trình phát thanh Tin Lành do Mục sư C. E. Travis khởi xướng năm 1951, được điều hành bởi một ủy ban của Tổng Liên hội, ghi âm chương trình phát thanh để được phát sóng từ một đài phát thanh Tin Lành tại ManilaPhilippines.[53] Cô nhi viện Tin Lành với một trường tiểu học và các lớp huấn nghiệp khánh thành ngày 4 tháng 9 năm 1953 tại Hòn Chồng, Nha Trang, được xây dựng trên khu đất rộng 18 mẫu Anh để lại cho giáo hội theo di chúc của William C. Cadman.[54] Giáo hội cũng đẩy mạnh công cuộc truyền giáo cho các sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên.[55]

Từ 1954 đến 1975[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1954Việt Nam tạm thời bị chia cắt, Hội thánh Tin Lành Việt Nam cũng bị phân chia thành 2 tổ chức, ở miền Bắc và ở miền Nam. Tại miền Bắc, do phần lớn tín đồ và chức sắc di cư vào miền Nam nên các hoạt động có phần chững lại.[56] Vào thời điểm 1975, chỉ có khoảng hơn 1 500 tín hữu với 14 chi hội tại 9 tỉnh, thành ở miền Bắc.[7]

Thánh Kinh Thần học viện Nha Trang, năm 1961.

Ngay khi hòa bình vừa tái lập, tại miền Nam, giáo hội đẩy mạnh công cuộc truyền bá phúc âm với sự hợp tác tích cực từ hầu hết các giáo đoàn trên cả nước. Một hình ảnh thường thấy vào thời ấy là một truyền đạo, được trang bị Kinh Thánh và Tân Ước, vài trăm truyền đạo đơn cùng chiếc xe đạp, đèn dầu, đôi khi có máy phóng thanh chạy bằng pin, với sự hỗ trợ của 4 hoặc 5 thanh niên, có thể thu hút những đám đông đến lắng nghe thông điệp Cơ Đốc từ đêm này qua đêm khác tại những địa điểm công cộng như chợ hoặc các hội trường tại các làng, xã lớn.[57]

Cá nhân chứng đạo – mỗi tín hữu chủ động chia sẻ niềm tin và trải nghiệm của mình cho họ hàng, thân hữu, đồng nghiệp khi có cơ hội – là một trong những phương pháp truyền bá phúc âm hiệu quả và ít tốn kém đã được nhiều tín hữu ứng dụng triệt để trong đời sống thường nhật.[58] Ngoài ra, còn có các chương trình truyền bá phúc âm cho giới trẻ, nhất là sinh viên học sinh, cho quân nhân, cho tù nhân tại các khám đường, và cho người bệnh cùng thân nhân của họ tại các bệnh viện.

Báo chí được sử dụng cho mục tiêu bồi linh và phổ truyền đức tin cũng được giáo hội quan tâm: Thánh Kinh báo (về sau đổi tên thành Thánh Kinh Nguyệt san) là tờ báo đầu tiên của Tin Lành Việt Nam, phát hành từ tháng 1 năm 1931. Ngoại trừ một thời gian bị đình bản do chiến tranh (1945 -1950), tờ báo phát hành hàng tháng cho đến tháng 4 năm 1975.[59] Còn có hai tờ báo khác nhắm vào các đối tượng độc giả khác nhau là tờ Đuốc Thiêng và tờ Hừng Đông (sau đổi thành Rạng Đông).[57] Nhà in Tin Lành di chuyển về Sài Gòn năm 1970, nhiều thể loại văn phẩm Cơ Đốc được phát hành thông qua Cơ quan Xuất bản Tin Lành. Có thể nói những năm 1954-1965 là thập niên truyền giảng lớn nhất trong lịch sử giáo hội. Tâm điểm không còn là xây dựng một giáo hội tự lập và tự trị, mà là phát triển hội thánh.[57]

Tháng 9, 1921, Trường Kinh Thánh Đà Nẵng được thành lập theo mô hình của Trường Huấn luyện Truyền giáo Nyack của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp,[60] với mục tiêu đào tạo mục sư cho giáo hội và nhân sự cho các hội thánh địa phương. Chương trình đào tạo nhắm đến mục tiêu thiết lập một giáo hội tự trị và tự phát triển tại Việt Nam.[61] Đến năm 1960, trường dời vào Nha Trang với tên mới là Thánh Kinh Thần học viện. Mục sư Ông Văn Huyên được bổ nhiệm vào chức vụ Viện trưởng.[57] Ngoài ra, còn có hai trường Kinh Thánh ở Đà Lạt và Ban Mê Thuột chuyên đào tạo nhân sự cho hội thánh sắc tộc, và thêm một trường Kinh Thánh cho người Jarai được thành lập tại Pleiku vào giữa thập niên 1950.[62]

Năm 1960Chẩn Y Viện Tin Lành được thành lập tại Nha Trang, trước đó 9 năm đã có một bệnh viện phung ở Eanna, Ban Mê Thuột, và Chẩn Y Viện Đà Lạt mở rộng hoạt động sau khi hòa bình trở lại năm 1954.[63] Ngoài trường tiểu học Bết-lê-hem thuộc Cô nhi viện Tin Lành Nha Trang, còn có hai trường tiểu học dành cho con em người dân tộc thiểu số ở Đà Nẵng và Đà Lạt. Với sự hỗ trợ của Hội Hoàn cầu Khải tượng, một mạng lưới trường học Tin Lành (phần lớn là trường tiểu học) được thành lập và phát triển tại nhiều địa phương, đến năm 1970 đã có 77 trường.[64] Trường trung tiểu học Ánh Sáng và trường huấn nghiệp Hòa Khánh tại Đà Nẵng, cùng trường huấn nghiệp dành cho người dân tộc thiểu số ở Đà Lạt là thành quả của Đoàn Thanh niên Cơ Đốc Xã hội.[65]

Từ 1975[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà thờ Tin Lành ở Tiền Giang
Hội Thánh Tin Lành Báp Tít tại Houston, Texas

Từ sau năm 1975, Hội thánh Tin Lành ở miền Bắc chỉ hoạt động cầm chừng, lại bị lâm vào khủng hoảng vì thiếu nhân sự kế thừa. Đến năm 2004, sau 20 năm không tổ chức đại hội, Đại hội đồng lần thứ 32 được triệu tập mở ra một giai đoạn mới cho Giáo hội với sự phát triển nhiều giáo đoàn trong vòng người dân tộc ở miền núi phía Bắc. Tầm hoạt động của Giáo hội cũng mở rộng ở hơn 20 tỉnh, thành phố từ Quảng Bình trở ra.[56] Vùng Tây Bắc có khoảng 135.000 người Mông, và khoảng 2.500 người Dao trở thành tín hữu Kháng Cách.[66]

Tại miền Nam, Hội thánh Tin Lành chưa được nhà nước Việt Nam công nhận.[56] Hội đồng Tổng Liên hội lần thứ 42 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 6 năm 1976[67] bầu Mục sư Ông Văn Huyên vào chức vụ Hội trưởng,[67] ông tiếp tục lãnh đạo giáo hội cho đến khi từ trần trong tháng 7 năm 1999.

Năm 1992-94, chính phủ Việt Nam cho phép nhập 33 000 Kinh Thánh và 20 000 Thánh ca, rồi cấp phép ấn hành 85 000 quyển Kinh Thánh toàn bộ (Cựu Ước và Tân Ước), 65 000 Kinh Thánh Tân Ước, 25 000 Thánh ca, và 120 000 quyển Truyện tích Kinh Thánh.[67]

Tháng 2, 2001, Đại hội đồng lần thứ 43 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh[68] thông qua bản Hiến chương mới, và bầu Mục sư Phạm Xuân Thiều làm Hội trưởng. Các hoạt động của giáo hội dần được phục hồi và phát triển với khoảng 600 000 tín hữu (năm 2009) ở 34 tỉnh, thành phố từ Quảng Trị trở vào.[56][69] Về đào tạo, Viện Thánh Kinh Thần học được mở lại từ năm 2003[70] với cơ sở mới đang được hoàn thành tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.[71]

Trong tháng 6 năm 2011, Lễ Kỷ niệm 100 năm Tin Lành đến Việt Nam lần lượt được tổ chức tại Đà Nẵng, Hà Nội, và Thành phố Hồ Chí Minh.[56][72]

Ngoài ra, có khoảng gần 5 000 người nước ngoài sinh sống ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đang sinh hoạt tại các nhà thờ Kháng Cách trong khu vực, đông nhất là người Hàn Quốc với 1 giáo đoàn ở Hà Nội, 2 giáo đoàn Báp-tít và 2 giáo đoàn Trưởng Lão ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thành phố này còn có Hội thánh New Life Fellowship dành cho người Mỹ, và một số nhóm của người Úc, và người Đức.[7]

Các dân tộc thiểu số[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù công cuộc truyền bá Phúc Âm cho các dân tộc thiểu số đã khởi sự từ năm 1924 giữa vòng người Khmer ở Châu Đốc, và cuối thập niên 1920 đã có một nhà thờ người sắc tộc được thành lập ở Khe So gần Đà Nẵng, đến năm 1929, mục tiêu truyền giáo cho người sắc tộc mới trở thành mối quan tâm của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp. Hội thánh Tin Lành và Hội Truyền giáo phối hợp cử những nhà truyền giáo tìm đến các dân tộc thiểu số để truyền giảng và thành lập các giáo đoàn. Bên cạnh đó còn có nỗ lực truyền giáo của Cơ Đốc Truyền giáo hội. Sự đáp ứng đối với thông điệp phúc âm là tích cực. Cho đến năm 1975, mục sư và tín hữu người sắc tộc điều hành hội thánh của họ với sự cố vấn và hỗ trợ của những nhà truyền giáo từ Hội Truyền giáo và Hội thánh Tin Lành Việt Nam.[73] Đến cuối thế kỷ 20, thêm một đợt bùng nổ số lượng người tiếp nhận đức tin Cơ Đốc, nâng số tín hữu trong các dân tộc thiểu số lên gấp 7 lần so với con số thống kê tính đến thời điểm 1975.[74]

Theo ước tính của một cuộc khảo sát thực hiện năm 2009, tỉ lệ tín hữu Cơ Đốc trong một số sắc dân là khá cao như M’Nông (44%), Mạ (45%), Xtiêng (52%), Ê Đê (93%); số tín hữu người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 62% trong tổng số hơn 1,2 triệu tín hữu thuộc cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam.[5][6] Tuy nhiên, tỷ lệ này đang sút giảm bởi vì ngày càng có nhiều người Kinh tiếp nhận đức tin Cơ Đốc.[75]

Các hệ phái[sửa | sửa mã nguồn]

Đa nguyên và dân chủ là hai nguyên lý căn bản trong việc hình thành và liên kết các giáo hội có tổ chức trong cộng đồng Kháng Cách trên thế giới.[76] Đồng thuận với nhau về những nguyên lý thần học căn bản thể hiện trong Năm Tín lý Duy nhất, tinh thần hiệp nhất giữa các hệ phái lập nền trên giáo thuyết Hội thánh vô hình[77] - phân biệt với "hội thánh hữu hình" trên đất - bao gồm con dân thật của Chúa, và chỉ có Chúa biết họ.[78] Như vậy, các hệ phái được thành lập để đáp ứng những nhu cầu đa dạng mà mỗi hội đoàn đều gặp phải như sự khác biệt về địa lý, phong tục tập quán, cơ cấu tổ chức, hoặc mục tiêu hoạt động mà vẫn duy trì sự hiệp nhất thuộc linh và sự hợp tác trong nỗ lực truyền bá phúc âm và các hoạt động xã hội.

Bên cạnh Hội thánh Tin Lành Việt Nam – cho đến nay vẫn là Giáo hội lớn nhất và nhiều ảnh hưởng nhất trong cộng đồng Kháng Cách– còn có những hệ phái sớm có mặt tại Việt Nam như Hội Truyền giáo Cơ Đốc (1957), Báp-tít (1959), Hội thánh Đấng Christ (1959).[2] Ngoài ra còn có các hệ phái khác như Trưởng LãoNgũ TuầnGiám Lý, Mennonite, Môn đệ Đấng Christ… với những nhóm độc lập bên trong mỗi hệ phái.[7]

Các hệ phái như Cơ Đốc Phục lâmChứng nhân Giê-hô-vaMormon... cũng được chính phủ Việt Nam xếp vào nhóm Tin Lành.[79]

Kết luận[sửa | sửa mã nguồn]

Dù có mặt ở Việt Nam khá muộn màng, sau hơn 100 năm tồn tại Tin Lành được xem là tôn giáo phát triển nhanh nhất Việt Nam, đặc biệt là từ những thập niên cuối thế kỷ 20.[80] Sự hình thành và phát triển của cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam là một thành quả đáng kể nếu so sánh với những xứ sở lân cận. Sau 100 năm hoạt động truyền giáo ở Thái Lan, chỉ có 9 000 người qui đạo. Cộng đồng Kháng Cách ở Campuchia và Lào có quy mô nhỏ hơn nhiều. Số tín hữu ở Trung Quốc đông đảo hơn nhưng họ có đến hơn 200 năm truyền giáo[81] với sự tập trung rất lớn của các hội truyền giáo từ châu Âu và Bắc Mỹ. Kể từ cuộc chiến giành độc lập, Tin Lành được công nhận là một trong những tôn giáo chính của đất nước.[82]

Bên trong Nhà thờ Tin Lành Đà Lạt

Mặt khác, đức tin Kháng Cách đòi hỏi người tín hữu phải có mối tương giao trực tiếp với Chúa Giê-xu, và những trải nghiệm tâm linh trong cuộc sống thường nhật là không thể thiếu: họ trò chuyện, giãi bày, tâm sự, khẩn nài với Chúa, và khi phạm tội xin Chúa tha thứ tội lỗi mà không cần thông qua một thực thể trung gian nào; đồng thời họ có thể tìm kiếm sự dạy dỗ, soi dẫn cũng như sự khích lệ, an ủi và sức mạnh tâm linh từ Chúa qua sự suy ngẫm Kinh Thánh bởi sự vận hành của Chúa Thánh Linh. Nền thần học này đã giúp giải phóng người tín hữu khỏi sự lệ thuộc vào các giáo hội có tổ chức. Trong thực tế, không ít người tiếp nhận và thực hành đức tin Cơ Đốc mà không có mối quan hệ nào, hoặc nếu có thì rất lỏng lẻo, với các giáo hội, nên con số thực có thể lớn hơn những gì được tìm thấy trên các bảng thống kê.[83][84]

Có một số nhân tố đóng góp cho thành tựu này: Chữ Quốc ngữ giúp phổ biến rộng rãi các loại ấn phẩm tôn giáo, nhất là bản Kinh Thánh tiếng Việt. Sự tận tụy và hi sinh của những nhà truyền giáo thời kỳ tiên khởi, nhiều người dành gần trọn đời mình (có những người gởi lại thân xác ở đây) chịu đựng bệnh tật và trải qua nhiều gian khổ. Cũng phải kể đến nhiệt huyết, khả năng, và bản lĩnh của các mục sư Việt Nam thuộc thế hệ đầu tiên.[85] Tín hữu Việt Nam được sớm đào tạo để tự điều hành và xây dựng một giáo hội tự trị, tự lập, và tự truyền bá.[75] Sử dụng hiệu quả kinh nghiệm của nhân học tôn giáo để truyền giáo cho các dân tộc thiểu số;[14] đến năm 1965, hơn 30 ngôn ngữ đã được dùng để đem thông điệp phúc âm đến các sắc dân ở Tây Nguyên và Tây Bắc, đồng thời Kinh Thánh đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số.[86]

Tuy nhiên, cộng đồng Kháng Cách cho đến nay vẫn là thiểu số, nhất là trong vòng người Kinh (chỉ chiếm 1% dân số),[5] và không có nhiều ảnh hưởng trong xã hội,[87] đặc biệt trong giới trí thức.[88] Từ thập niên 1960, Mục sư Lê Hoàng Phu đã quan tâm đến sự thiếu vắng sự sâu nhiệm thuộc linh ở nhiều chức sắc, vì vậy họ luận giải Kinh Thánh "bằng cách bắt chước những diễn giả khác";[89] ông cũng sớm nhận diện một trong những vấn nạn của giáo hội, đó là không thể "cung cấp đủ những lãnh đạo được huấn luyện kỹ lưỡng để chăn dắt các Hội thánh đang tăng trưởng về nhân số và hiểu biết".[90] Tình trạng hiện nay còn tồi tệ hơn. Khác với cộng đồng Kháng Cách người Việt ở hải ngoại, thành phần trí thức chỉ là thiểu số trong giới lãnh đạo và trong hệ thống đào tạo của các giáo hội trong nước, sự khiếm khuyết về kiến thức thần học và xã hội là khá phổ biến giữa vòng họ.[91] Mặt khác, trong những năm gần đây, nhiều vụ tai tiếng xuất hiện với tần suất cao chưa từng có trong lịch sử hơn 100 năm của cộng đồng Kháng Cách Việt Nam là điều đáng quan ngại.[92] Mặc dù khó có thể kiểm tra độ chính xác của những cáo buộc về tư cách đạo đức của nhiều người thuộc hàng giáo phẩm, nhất là những người lãnh đạo các giáo hội, chúng đã gây phân hóa cũng như làm sút giảm uy tín của cả cộng đồng.[93] Sự đố kỵ giữa các hệ phái cũng là một lực cản khác đối với nỗ lực mang phúc âm đến cho một đất nước gần 90 triệu dân.[75][94]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. a b Lê Hoàng Phu 2010, tr. 85
  2. a b Lê Hoàng Phu 2010, tr. 276
  3. a b “Cả nước có 1 triệu tín đồ Tin Lành”. Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
  4. ^ Nguyễn Cao Thanh, Đạo Tin Lành ở Việt Nam từ 1975 đến nay, tư liệu và một số đánh giá ban đầu, Ban Tôn giáo Chính phủ.
    Như vậy, theo ước tính ban đầu, tổng số người theo đạo Tin Lành ở Việt Nam cho đến nửa cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI có khoảng 1.460.000 người đang sinh hoạt ở 6.000 chi hội và điểm nhóm.
  5. a b c Joseph, Martin. “The Protestant Church in Vietnam (Appendix 3: Ethnic groups)”. Christian Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  6. a b Trần Thanh Giang. “Đạo Tin Lành ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra hiện nay”. Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa.
    ...đạo Tin lành đã có cơ sở trong quần chúng ở nhiều vùng trên đất nước ta, thực tế hiện nay đã có khoảng hơn 1,2 triệu tín đồ. Đặc biệt là khoảng 10 năm trở lại đây, đạo Tin lành phát triển đột biến ở Tây Nguyên, Tây Bắc và một số vùng dân tộc thiểu số khác...
  7. a b c d Nguyễn Cao Thanh, Đạo Tin Lành ở Việt Nam từ 1975 đến nay, tư liệu và một số đánh giá ban đầu, Ban Tôn giáo Chính phủ
  8. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử Tân biên, Vol. IV, p. 119, Khai Trí, Sài Gòn, 1951, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 83
  9. a b J. Respont. L’Eglise d’Indochine (1964). Propagation de la Foi, Lyon. tr. 3., trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 84
  10. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 83
  11. a b Lê Hoàng Phu 2010, tr. 84
  12. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử Tân biên, Vol. IV, p. 195, 226, 288-89, Khai Trí, Sài Gòn, 1951 trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 84
  13. ^ “Alexandre Yersin – Thư viện Tin Lành”Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  14. a b c Đỗ Quang Hưng, Đạo Tin Lành ở Việt Nam, một cái nhìn tổng quát, Ban Tôn giáo Chính phủ
  15. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 87
  16. ^ A. B. Simpson,Editorial Paragraph, Word, Work, and World (2/1887), p. 128, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 95
  17. a b E. F. Irwin 1937, tr. 25, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 95
  18. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử Tân biên, Vol. V, p. 322, 432 Khai Trí, Sài Gòn, 1951, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 96
  19. ^ E. F. Irwin 1937, tr. 26, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 95
  20. ^ E.F.Irwin 1937, tr. 26, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 96
  21. ^ CMA, Annual Report for 1911, p. 19, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 97
  22. ^ E. F. Irwin 1937, tr. 30, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 98
  23. ^ CMA, Annual Report for 1916, p.50, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 99
  24. ^ CMA, Annual Report for 1921, p. 21, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 100
  25. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 100
  26. ^ E. F.Irwin 1937, tr. 110, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 101
  27. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 143
  28. ^ Điều lệ Hội thánh Tin Lành Việt Nam, pp. 1-2, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 143
  29. ^ Tổng liên hội, Quyết nghị Hội đồng Tổng liên hội (Nha Trang: Tổng liên hội, 1964), p. 31, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 143
  30. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 151
  31. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 153
  32. ^ The Constitution of the ECIC (1928), pp. 27, 28, 29, 34-38
  33. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 154
  34. ^ The Constitution of the ECIC (1928), p. 7, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 155
  35. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 157, 158
  36. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 149
  37. ^ The CMA Mission in Indochina, The Call of Indochina (1-3/1928), p. 2, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 166
  38. ^ Th. Calas, Bulletin Paroissial (4/1929), p. 1, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 166
  39. ^ Jean Decoux, Letter No. 48 N/F (19/1/1942), trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 176
  40. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 179
  41. ^ The Constitution of ECIC (1928), P. 33, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 96
  42. ^ CMA, Annual Report for 1926, pp. 90ff, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 182
  43. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 183
  44. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 217, 219, 220.
    Nhờ sự hỗ trợ tích cực từ các hội thánh địa phương và thân nhân các học viên, chỉ có hai trong tổng số 93 học viên phải nghỉ học do thiếu kinh phí. Nhà trường bị đóng cửa năm 1946 là do những biến động chính trị, không phải vì thiếu ngân khoản.
  45. ^ Bà D. I. Jeffrey, Grace and Liberty, AW (9/1/1943), p. 25, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 220.
    Có những truyền đạo và vợ dù chỉ tạm đủ sống cũng "lột cả đồng hồ, bông tai, nhẫn cưới, khăn choàng cổ, và dù" để giúp các bạn đồng lao ở miền Bắc. Một người bán sách phải nuôi bốn con, đã dốc sạch túi để đóng góp dù ông vừa bị cắt giảm lương...
  46. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 222, 223
  47. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 224, 225
  48. ^ L. B. Grobb, Internment in Indochina, AW (12/1/1946), p. 24, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 226
  49. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 226
  50. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 227
  51. ^ Phúc âm Ma-thi-ơ 24: 36, Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, cả thiên sứ trên trời, hay là Con cũng vậy, chỉ một mình Cha biết mà thôi.
  52. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 234-237
  53. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 263
  54. ^ The Evangelical Orphanage (Saigon: Cô nhi viện, 1959), pp. 106-107, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 263
  55. ^ CMA, Annual Report for 1954, pp. 56-57, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 264
  56. a b c d e Minh Thanh, Khái quát lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ
  57. a b c d Lê Hoàng Phu 2010, tr. 324
  58. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 324-325
  59. ^ “Lược sử Thánh Kinh báo - Thư viện Tin Lành”Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  60. ^ E. F.Irwin 1937, tr. 86, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 114
  61. ^ E. F.Irwin 1937, tr. 93ff, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 117
  62. ^ T. G. Mangham, Tribes of Vietnam, AR for 1954, p. 11, trích dẫn bởi Lê Hoàng Phu 2010, tr. 305
  63. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 285-287
  64. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 283
  65. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 283-284
  66. ^ Nguyễn Cao Thanh, Đạo Tin Lành ở Việt Nam từ 1975 đến nay, tư liệu và một số đánh giá ban đầu, Ban Tôn giáo Chính phủ.
    Trước đây, trong vùng này chỉ có một Chi hội Tin Lành của người Dao với hơn 1.000 tín đồ và hầu như không có người Mông theo đạo Tin Lành.
  67. a b c Nguyễn Sinh, 100 năm Tin Lành đến Việt Nam (kỳ 6): Hội thánh miền Nam sau năm 1954, HộiThánh.Com
  68. ^ Khai Mạc Đại Hội đồng Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) lần thứ 1
  69. ^ Joseph, Martin. Inside the Church: denominations, relationships and differences. Lưu trữ 2013-09-21 tại Wayback Machine Christian Publishing
  70. ^ Công tác xây dựng nhà thờ của Viện Thánh Kinh Thần học
  71. ^ Viện Thánh Kinh Thần học: Lễ Khai giảng niên học 2013, Khóa 4 & khóa 6 – HộiThánh.Com
  72. ^ Lễ Kỷ Niệm 100 Năm Tin Lành Truyền Đến Việt Nam - Tại Đà Nẵng Lưu trữ 2013-05-19 tại Wayback Machine Chi hội Tin Lành Đà Lạt
  73. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 347-357
  74. ^ Nguyễn Thanh Cao. “Đạo Tin Lành sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 01 của Thủ tướng Chính phủ”. Ban Tôn giáo Chính phủ.
  75. a b c Joseph, Martin. “The Protestant Church in Vietnam (Conclusion: Key factors of Protestant growth in Vietnam)”. Christian Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  76. ^ Trần Thanh Giang. “Đạo Tin Lành ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra hiện nay”. Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa.
    Đạo Tin lành không lập ra tổ chức giáo hội mang tính chất phổ quát cho toàn đạo mà đi theo hướng xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với những hình thức khác nhau theo từng hệ phái, từng quốc gia. Trong tổ chức giáo hội, các hệ phái Tin lành chủ trương giao quyền tự trị cho các giáo hội cơ sở, chi hội, các cấp giáo hội bên trên hình thành phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cho phép. Giáo hội Tin lành không cấu thành bởi các vị giáo sĩ một cách cố định như Công giáo mà cả tín đồ, giáo sĩ tham gia thông qua bầu cử một cách dân chủ… Nhìn chung, có thể thấy sự cải cách của Tin lành về cách thức hành đạo cũng như tổ chức giáo hội chịu ảnh hưởng đậm nét của tư tưởng dân chủ và khuynh hướng tự do cá nhân, giảm thiểu và bớt đi sự linh thiêng về luật lệ, lễ nghi, cơ cấu tổ chức của đạo Công giáo.
  77. ^ Phúc âm Ma-thi-ơ 7: 21, Không phải bất cứ ai nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", đều được vào vương quốc thiên đàng đâu; nhưng chỉ người nào làm theo ý muốn của Cha Ta trên trời mà thôi.
  78. ^ “Introduction to Protestantism”Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  79. ^ Website Ban tôn giáo tỉnh Kon Tum
  80. ^ Nguyễn Cao Thanh, Đạo Tin Lành ở Việt Nam từ 1975 đến nay, tư liệu và một số đánh giá ban đầu, Ban Tôn giáo Chính phủ.
    Xét về số lượng, và phạm vi, cho dù chưa có số liệu thống kê chính xác từ phía tôn giáo và cơ quan nhà nước, nhưng đều đưa đến nhận diện ban đầu về đạo Tin lành ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay, nếu so với trước năm 1975, thì số lượng tín đồ tăng lên gấp 6 lần, trong khi khoảng thời gian chỉ bằng một nửa so với trước đây (64 năm từ 1911 đến 1975; 31 năm từ 1975 đến 2010). Nếu so với các tôn giáo thì đạo Tin lành phát triển với tốc độ nhanh nhất (năm 1975, đạo Công giáo ở Việt Nam có hơn 4,0 triệu thì đến năm 2010 tăng lên 6,0 triệu, trong khi dân số tăng lên gấp đôi là 85 triệu). Số lượng các hệ phái Tin lành vào truyền giáo cũng nhiều hơn trước, năm 1975 có hơn 10 tổ chức, hệ phái; hiện nay có đến gần 50 tổ chức, hệ phái. Phạm vi hoạt động của đạo Tin lành, ở thời điểm 1975 chỉ có ở các tỉnh phía Nam và một số tỉnh phía Bắc, đến nay đạo Tin lành có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước (trừ hai tỉnh Ninh Bình và Quảng Bình).
  81. ^ Joseph, Martin. “The Protestant Church in Vietnam - Introduction”. Christian Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  82. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 387
  83. ^ Lê Hoàng Phu. Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam (1911 – 1965). Nhà xuất bản Tôn giáo, 2010; p. 382.
    Hàng ngàn người Tin Lành, cả nam lẫn nữ chẳng bao giờ gia nhập một Hội thánh, hoặc vì thiếu sự giao thông với hội thánh địa phương, hoặc vì họ lựa chọn để thờ phượng Chúa cách cá nhân.
  84. ^ Trần Thanh Giang. “Đạo Tin Lành ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra hiện nay”. Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa.
    Sinh hoạt tôn giáo không lệ thuộc nhiều vào việc lễ bái, nơi thờ tự, chức sắc... Người ta khó có thể đánh giá mức độ và nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ Tin lành qua việc họ có đến nhà thờ tham dự các sinh hoạt tôn giáo hay không. Đối với tín đồ Tin lành, nếu có đức tin thì ở tại gia đình với quyển kinh thánh, họ có thể chu toàn bổn phận của một tín đồ.
  85. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 391
  86. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 378-380
  87. ^ Joseph, Martin. “The Protestant Church in Vietnam - Introduction”. Christian Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
    Xã hội Việt Nam nghĩ gì về Tin Lành? Phần lớn những người tôi từng tiếp xúc không phân biệt được Tin Lành với Công giáo. Cảm xúc chung đối với Tin Lành là không thích cũng không ghét, chỉ dửng dưng... Rõ ràng đây là một trở ngại đối với sự phát triển của giáo hội bởi vì người Việt thường tỏ ra cởi mở với những tư tưởng mới nếu họ hiểu biết về nó...
  88. ^ Lê Hoàng Phu (2010), p. 387.
    Học giả Đào Duy Anh nhận xét, "Tin Lành thì tốt nhưng chỉ người dốt mới tiếp nhận đạo ấy", theo lời thuật lại của ông Đào Duy Tiên, một tín hữu và là em ruột ông Đào Duy Anh.
    Sau khi nghe một truyền đạo Tin Lành ở Huế, một học giả khác, Phạm Quỳnh, hỏi một giáo sĩ, "Tại sao ông không tuyển lựa người học thức hơn để giảng đạo của ông?"
  89. ^ Giê-rê-mi 23: 30, Đức Giê-hô-va phán, "Nầy, Ta chống lại các kẻ tiên tri ăn cắp lẫn nhau lời của Ta."
  90. ^ Lê Hoàng Phu 2010, tr. 391-392
  91. ^ Strong, Augustus H.Systematic Theology. Judson Press, Philadelphia, 1907, p. 917.
    Một người không phân biệt được muông sói với những chú chó chăn chiên thì đừng nghĩ đến việc trở thành người chăn bầy.
  92. ^ Mi-chê 3: 5, Đây là lời Đức Giê-hô-va phán về các kẻ tiên tri, là kẻ làm dân Ta lầm lạc. Nếu có ai cho chúng nó ăn, thì chúng rao rằng: "Bình an!". Còn nếu ai không cho vật gì vào miệng chúng, thì chúng tuyên chiến chống lại họ.
  93. ^ Ê-xê-chi-ên 13: 19, Các ngươi đã làm nhục Ta giữa dân Ta vì mấy nắm mạch nha và mấy miếng bánh mì. Các ngươi lừa dối dân Ta là kẻ thích nghe những lời dối trá ấy để giết chết những kẻ không đáng chết, và cho sống những kẻ không đáng sống.
  94. ^ I Cô-rin-tô 12: 27; Cô-lô-se 1: 18, Anh em là thân của Chúa Cơ Đốc, và là chi thể của thân....Ngài là đầu của thân thể, tức là đầu Hội thánh.
    Có lẽ cần có thời gian để những người lãnh đạo các hệ phái học biết cách vượt qua lòng tị hiềm và lợi ích cá nhân để có thể hiểu được rằng mỗi hệ phái là một phần không thể chia cắt của hội thánh chung.
nguồn dẫn
  • Lê Hoàng Phu (2010), Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam (1911 - 1965), Nhà xuất bản Tôn giáo
  • Irwin, E. F. (1937), With Christ in Indochina, Christian Publication, Inc.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state