Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

Xem Nhân vật

Bạn đang xem : Hồi giáo (đạo Hồi hay là đạo Islam)

student dp

Hồi giáo (đạo Hồi hay là đạo Islam)

ID:19

Class:4

Section:A

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Không xác định
Religion : Group
blood : B+

Other Information

Hồi giáo hay còn gọi là đạo Hồi hay là đạo Islam[note 1](tiếng Ả Rập: الإسلام al-'islām) là một tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, độc thần, dạy rằng chỉ có một Thiên Chúa (Allah) và Muhammad là sứ giả của Thiên Chúa.[1][2] Đây là tôn giáo lớn thứ hai thế giới[3] với hơn 1 tỷ người theo tương đương 15% dân số thế giới, và họ thường được gọi là người Hồi giáo.[4] Hồi giáo chiếm phần lớn dân số ở 50 quốc gia.[3] Hồi giáo dạy rằng Thiên Chúa là lòng thương xót, Đấng Toàn năng và Duy nhất,[5] và Chúa đã hướng dẫn loài người qua các sứ giả, thánh thư được tiết lộ và các dấu hiệu tự nhiên.[2][6] Kinh sách chính của Hồi giáo là Kinh Qur'an(Cô-ran), được người Hồi giáo xem là lời nguyên văn của Thiên Chúa, và các giáo lý và ví dụ quy phạm (được gọi là sunnah, bao gồm các ghi chép được gọi là hadith) của Muhammad (570 – 8 tháng 6 632).

Nội dung chi tiết

Hồi giáo

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bạn có tin nhắn mới Tin nhắn! (thay đổi gần đây).

Một phần của loạt bài về
Hồi giáo

Tín điều[ẩn]

Hành đạo[ẩn]

Lịch sử & Các lãnh tụ tôn giáo[ẩn]

Kinh điển & Giáo luật[ẩn]

Các chi nhánh lớn[ẩn]

Văn hóa & Xã hội[ẩn]

Islam và các tôn giáo khác[ẩn]

Xem thêm[ẩn]

Hồi giáo hay còn gọi là đạo Hồi hay là đạo Islam[note 1](tiếng Ả Rập: الإسلام al-'islām) là một tôn giáo khởi nguồn từ Abrahamđộc thần, dạy rằng chỉ có một Thiên Chúa (Allah) và Muhammad là sứ giả của Thiên Chúa.[1][2] Đây là tôn giáo lớn thứ hai thế giới[3] với hơn 1 tỷ người theo tương đương 15% dân số thế giới, và họ thường được gọi là người Hồi giáo.[4] Hồi giáo chiếm phần lớn dân số ở 50 quốc gia.[3] Hồi giáo dạy rằng Thiên Chúa là lòng thương xót, Đấng Toàn năng và Duy nhất,[5] và Chúa đã hướng dẫn loài người qua các sứ giả, thánh thư được tiết lộ và các dấu hiệu tự nhiên.[2][6] Kinh sách chính của Hồi giáo là Kinh Qur'an(Cô-ran), được người Hồi giáo xem là lời nguyên văn của Thiên Chúa, và các giáo lý và ví dụ quy phạm (được gọi là sunnah, bao gồm các ghi chép được gọi là hadith) của Muhammad (570 – 8 tháng 6 632).

Người Hồi giáo tin rằng Hồi giáo là phiên bản hoàn chỉnh và phổ quát của một đức tin nguyên thủy đã được tiết lộ nhiều lần trước đây thông qua các tiên tri bao gồm Adam, Abraham, Moses và Jesus.[7][8][9] Người Hồi giáo coi Kinh Qur'an trong tiếng Ả Rập gốc của nó là sự mặc khải không thay đổi và cuối cùng của Thiên Chúa.[10] Giống như các tôn giáo Abraham khác, Hồi giáo cũng dạy về một ngày phán xử cuối cùng với người tốt sẽ được lên thiên đường và người xấu sẽ bị trừng phạt tại địa ngục.[11][12] Các khái niệm và thực hành tôn giáo bao gồm Năm trụ cột Hồi giáo, là những hành vi tôn giáo bắt buộc và tuân theo luật Hồi giáo (sharia), ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống và xã hội, từ ngân hàng và phúc lợi cho phụ nữ và môi trường.[13][13][14] Các thành phố MeccaMedina và Jerusalem là nơi có ba địa điểm linh thiêng nhất trong đạo Hồi.[15]

Bên cạnh những câu chuyện mang tính thần học,[13][16][17] Hồi giáo được lịch sử cho là có nguồn gốc từ đầu thế kỷ thứ 7 sau CN tại Mecca,[18] và đến thế kỷ thứ 8 các vua Nhà Omeyyad kéo dài từ Iberia ở phía tây đến Sông Indus ở phía đông. Thời đại hoàng kim Hồi giáo đề cập đến thời kỳ truyền thống có niên đại từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 13, trong thời đại Abbasid Caliphate, khi phần lớn thế giới Hồi giáo trong lịch sử đang trải qua thời kỳ hưng thịnh về khoa học, kinh tế và văn hóa.[19][20][21] Sự mở rộng của thế giới Hồi giáo liên quan đến nhiều caliphate khác nhau, như Đế chế Ottoman, thương nhân và việc chuyển đổi sang Hồi giáo bằng các hoạt động truyền giáo (dawah).[22]

Hầu hết người Hồi giáo là thuộc một trong hai giáo pháiSunni (75-90%)[23] hoặc Shia (10-20%).[24] Khoảng 13% người Hồi giáo sống ở Indonesia, quốc gia đa số Hồi giáo lớn nhất;[25] 31% người Hồi giáo sống ở Nam Á,[26] dân số Hồi giáo lớn nhất thế giới;[27] 20% tại Trung Đông, Bắc Phi,[28] nơi đây là tôn giáo thống trị;[29] và 15% ở châu Phi cận Sahara.[30] Các cộng đồng Hồi giáo có quy mô cũng được tìm thấy ở Châu Mỹ, Kavkaz, Trung Á, Trung Quốc, Châu Âu, Đông Nam Á lục địaPhilippines và Nga.[31][32] Hồi giáo là tôn giáo lớn phát triển nhanh nhất trên thế giới.[33][34][35]

Phong trào Darul Islam (Ngôi nhà Hồi giáo) tố cáo nhà nước phân biệt đối xử với Hồi giáo và khoan dung hơn với các cộng đồng thiểu số. Darul Islam nổi loạn đòi thành lập nhà nước Hồi giáo tại Indonesia và đã bị đàn áp. Đến năm 1962, tổ chức này bị quân đội xóa sổ.

Đến cuối thập niên 1990, xung đột bạo lực gia tăng trở lại chủ yếu do nhóm khủng bố Hồi giáo Jemaah Islamiyah (Cộng đồng Hồi giáo) có liên hệ với Al Qaeda thực hiện. Chúng tuyên bố phát động “thánh chiến”. Đối tượng bị tấn công nhiều nhất là người Indonesia gốc Hoa và giáo dân Thiên Chúa giáo.

Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Trong lịch sử, đạo Hồi ra đời vào thế kỷ 7 tại bán đảo Ả Rập, do Thiên sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua thiên thần Jibrael (Gabriel). Đạo Hồi chỉ tôn thờ Thánh Allah Đấng Tối cao, Đấng Duy Nhất (tiếng Ả Rập: الله Allāh). Đối với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh Qur'an (còn viết là Koran) qua Thiên thần Jibrael.

Islam theo tiếng Ả rập có nghĩa là phục tùng, vâng mệnh, tuân theo, ngoài ra Islam còn là danh từ ghép từ 2 chữ Ikhlas & Salam (Bình an, Thuần khiết). Theo Hồi giáo, danh từ Islam được Allah dùng để gọi tôn giáo mà Ngài ban xuống được tìm thấy trong kinh Quran nên người Hồi giáo sử dụng tên này cho tôn giáo của mình

Các tên gọi và cụm từ liên quan[sửa | sửa mã nguồn]

Biểu tượng của Hồi giáo được thế giới biết đến

Nguyên nghĩa của Hồi giáo trong tiếng Ả Rập là 'Islam' và có nghĩa là "vâng mệnh, quy phục Thượng đế". Người theo Islam, trong tiếng Ả Rập gọi là 'Muslim', do đó có các chữ muslimmoslem tiếng Anh và musulman tiếng Pháp, nghĩa là "người từ Mosul". Danh từ "Hồi giáo" xuất xứ từ dân tộc Hồi HộtHồi Hột là nước láng giềng phương bắc của Trung Quốc từ năm 616 đến 840. Lúc rộng lớn nhất lãnh thổ họ đông đến Mãn Châu, tây đến Trung Á [36], và họ đã giúp nhà Đường dẹp được loạn An Lộc Sơn. Với thời gian, cách gọi đổi thành "Hồi Hồi". Tài liệu xưa nhất dùng danh từ "Hồi Hồi" là Liêu Sử, soạn vào thế kỷ 12.[37] Đời nhà Nguyên (1260 - 1368), tại Trung Quốc, cụm từ "người Hồi Hồi" được dùng để chỉ định người Trung Á, bất luận theo tín ngưỡng nào. Đến đời Minh (1368 - 1644), cụm từ "người Hồi Hồi" mới dần dần đổi nghĩa để chỉ định tín đồ Islam.[37]

Trước đó, người Hán thường gọi Islam là Đại Thực giáo hay đạo A-lạp-bá.[38] "A-lạp-bá" (阿拉伯, bính âm: Ālābó, đọc từ Arabo) là phiên âm tiếng Hán của danh từ "Ả Rập". "Đại Thực" là phiên âm của chữ "Tazik" (大食, tiếng Hán trung cổdhɑ̀ jhiək), tiếng Ba Tư dùng gọi người "Ả Rập" (nhiều khả năng cũng có thể liên quan đến bộ tộc Tajik), vì Tazik là tên một bộ tộc người Ả Rập tiếp xúc nhiều với Ba Tư thời xưa.[39]

Do "Hồi Hồi" là tên gọi chủng tộc, không phải là dịch nghĩa của chữ Islam hay một tôn chỉ của Islam, nên một số người hạn chế dùng danh từ "Hồi giáo" hay "đạo Hồi". Trường hợp các tên "Đại Thực" hay "A-lạp-bá" cũng thế. Bởi thế, tại Trung Quốc, ngay từ năm 1335, thời nhà Nguyên, đã có người đề ra cụm từ Thanh Chân giáo (清真教) để thích nghi hơn với tiếng Hán[40]. Đề nghị này được hưởng ứng rộng rãi nên ngày nay Thanh Chân giáo là cụm từ được ghi trong nhiều từ điển tiếng Hán [41]. Tại Trung Quốc ngày nay cũng có nhiều "Thanh Chân tự" (清真寺) (thánh đường Islam) và "Thanh Chân thực đường" (清真菜堂) (quán ăn, nhà ăn halal).

Ngày nay tại Trung Quốc người ta cũng thường gọi Islam theo phiên âm là Y Tư Lan giáo (Phồn thể: 伊斯蘭教, giản thể: 伊斯兰教 Yīsīlán jiào).[42]. Cơ quan đại diện Islam chính thức tại Trung Quốc có tên là "Hiệp hội Y Tư Lan giáo Trung Quốc" (中国伊斯兰教协会 Zhōngguó Yīsīlánjiào xiéhuì) được ra đời ngày 11 tháng 5 năm 1953, trực thuộc chính quyền và có trụ sở tại Bắc KinhWikipedia Trung văn cũng dùng danh từ Y Tư Lan giáo.

Nhiều tài liệu, văn bản trong tiếng Việt từ nhiều năm nay cũng dùng danh từ đạo Islam hay đạo Ixlam. Tuy nhiên, nhiều tín hữu Islam nói tiếng Việt vẫn dùng danh từ Hồi giáo vì đã quen nghĩ đến, nói đến danh từ này một cách tôn kính.

Giáo lý[sửa | sửa mã nguồn]

Tín đồ Islam lễ bái

Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ki tô giáo và Do Thái giáo. Thể hiện rõ trong kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung của kinh Cựu Ước và Tân Ước). Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Qur'an, gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín đồ Hồi giáo, thiên kinh Qur'an là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng Toàn Năng.

Người Hồi giáo tin tưởng các vị sứ giả đến trước sứ giả Muhammad, kể từ Adam đến Jesus xuyên qua NoahAbrahamMoise, v.v. Họ cũng tin tưởng Cựu ước và Tân ước là kinh sách của Allah nhưng họ không thi hành theo vì sự "lệch lạc" do người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo tạo ra và thiên kinh Qur'an được Allah mặc khải xuống để điều chỉnh lại những gì đã sai trái ở hai kinh sách đó.

  • Jesus đối với người Hồi giáo là một sứ giả rất được kính mến, nhưng họ không tin Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ là một con người, một sứ giả như mọi sứ giả khác vì theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa không có con, như Thiên kinh Qur'an đã phán:
    Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đời? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật." (trích 6:101)
  • Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eva không phải là nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai khác; ngoại trừ Allah.

Sự khác nhau giữa Cựu ƯớcTân Ước và Thiên Kinh Qur'an trên quan điểm Đấng Toàn Năng như sau:

Cựu Ước:

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình.

sách Sáng Thế 1:27.

Tân Ước:

Ta và Cha ta là một.

Tân ước Gioan 10:30.

Thiên Kinh Qur'an:

Ngài là Đấng Duy Nhất. Allah Đấng Độc Lập và Cứu Rỗi. Ngài chẳng sinh ra ai và cũng chẳng ai sinh ra Ngài. Không một ai đồng đẳng với Ngài.

Thiên Kinh Qu'ran 112: 1-4.

Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur'an cũng liệt kê mười điều tương tự:

  1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Ả Rập là Allah).
  2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
  3. Tôn trọng quyền của người khác.
  4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
  5. Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*).
  6. Cấm ngoại tình.
  7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
  8. Hãy cư xử công bằng với mọi người.
  9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
  10. Hãy khiêm tốn

(*) Trường hợp đặc biệt được phép giết người mà không bị trọng tội là:

1) Trong khi kháng cự hoặc chiến đấu chống lại những kẻ lùng giết người đạo mình nhằm cưỡng bách bỏ đạo. Nhưng nếu chiến thắng, phải noi gương thiên sứ Muhammad, tha thứ và đối xử nhân đạo với phần đông kẻ bại trận.

2) Giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành.

Ngoài ra tín đồ Hồi giáo có một số luật lệ:

  • Một lần trong đời, họ phải hành hương về thánh địa Mecca, nhưng với điều kiện họ không vay mượn hay xin phí tổn. Trước khi đi, họ phải lo cho gia đình vợ con đầy đủ những nhu cầu cần thiết trong thời gian họ vắng mặt hành hương.
  • Nghiêm cấm ăn máu, thịt con vật đã chết trước khi được cắt tiết theo nghi thức; không được ăn thịt lợn vì lợn là loài vật ô uế.[43]
  • Nghiêm cấm uống rượu và các thức uống lên men.
  • Nghiêm cấm cờ bạc.[44]
  • Nghiêm cấm gian dâm và trai gái quan hệ xác thịt trước khi cưới hỏi.
  • Nghiêm cấm ăn những con vật ăn thịt sống hay ăn tạp (như chómèochuột, v.v.).
  • Người Hồi giáo chỉ được ăn thịt halal, tức là thịt đã được giết mổ theo nghi thức của đạo Hồi. Tuy nhiên, trong trường hợp tuyệt đối không có gì ăn, họ được ăn mọi thứ để duy trì sự sống.
  • Hàng năm phải thực hiện tháng ăn chay Ramadan để tưởng nhớ và biết thương xót người nghèo. Tháng này tính theo lịch Mặt Trăng. Trong tháng này, khi còn ánh sáng Mặt Trời, họ không được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này, con người phải tha thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có mang không phải thực hiện Ramadan.
  • Hồi giáo nghiêm cấm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo, tín đồ Hồi giáo không được phép chỉ trích cũng như phán xét người khác. Đó là việc của Allah Đấng Toàn Năng

Trên phương diện khoa học nhân văn, Hồi giáo là một tôn giáo ra đời vào thế kỷ thứ 7, dựa trên những nền tảng có sẵn của Do Thái giáo và Kitô giáo. Đôi khi người ta cũng gọi Hồi giáo là đạo Muhammad (Muhammadanism), theo tên của đức sáng tổ.

Tuy nhiên, với những tín đồ Hồi giáo, đạo của họ là đạo thường hằng trong vũ trụ, do Thượng đế tạo ra, và vì Thượng đế vốn bất sinh bất diệt nên đạo của Ngài cũng bất sinh bất diệt; còn Muhammad đơn thuần chỉ là một người "thuật nhi bất tác", thuật lại cho mọi người những mặc khải của Thượng đế mà thôi. Trong quan niệm của các tín đồ, Hồi giáo không khởi sinh từ Muhammad. Với họ, con người đầu tiên do Thượng đế tạo ra, tức Adam, là tín đồ Hồi giáo đầu tiên, và ngay từ thuở hồng hoang, khắp đất trời đã là một vương quốc Hồi giáo. Không chỉ người mà thôi, mà tất cả muông thú, cỏ cây đều tuân theo Hồi giáo cả. Sở dĩ Adam và loài người được kiến tạo là để thay mặt Thượng đế cai quản các loài thảo cầm ở nhân gian. Và vì đẳng cấp của loài người cao như thế tự do ý chí nên vấn đề nảy sinh từ đây. Sự tự do ý chí đôi khi dẫn đến những lầm lạc, lầm lạc dẫn đến rời bỏ Thượng đế, và xa dần chính đạo. Khi Adam, con người đầu tiên và cũng là Thiên Sứ đầu tiên, lìa trần, con cháu ông, không còn ai chỉ bảo, càng lún sâu vào con đường tối. Do thế mà Thượng đế lại phải gửi xuống nhân gian những vị Thiên Sứ mới để nhắc lại Thiên Đạo, đưa loài người về đúng nẻo ngay. Trước Muhammad, đã có hằng trăm ngàn Thiên Sứ giảng lời mặc khải ở trần thế, trong đó có NoahAbraham (Ibrohim), Moses (Musa), David (Dawud) và Jesus (Ysa)... Tuy nhiên, một là do loài người u mê chưa tỉnh ngộ, hai là do sự ngoan cố, tự cao, tự đại của con người, mà chính đạo vẫn bị bóp méo như thường. Rốt cuộc, đến thế kỷ 7Thượng đế khải thị cho Muhammad, và biến ông trở thành vị Thiên Sứ hoàn hảo nhất trước nay, hơn hẳn những Thiên Sứ tiền nhiệm. Do đó mà đạo của Muhammad truyền bá cũng là hoàn hảo nhất, không thể bị bóp méo như trước kia. Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng, và bất cứ ai dám xưng Thiên Sứ sau Muhammad đều là kẻ tà giáo. Như đã thấy ở trên, Abraham (Ibrohim) cử xuống cho Do Thái Giáo, và Giêsu (Ysa) cử xuống cho Kitô giáo, đều có vị trí Thiên sứ trong Hồi giáo. Như vậy, Thiên Chúa mà ba tôn giáo này thờ phượng chỉ là một.

Từ Allah trong tiếng Ả Rập mang nghĩa là Thượng đế. (Những Kitô hữu người Ả Rập khi cầu nguyện cũng gọi Đức Chúa Cha là Allah). Thượng đế dĩ nhiên phải cao hơn Thánh và là duy nhất, vả lại trong đạo Hồi chính thống hoàn toàn không có khái niệm Thánh. Người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo cũng được tín đồ Hồi giáo tương đối coi trọng và gọi là Giáo Dân Thánh Thư (People of The Book). Kinh Thánh Kitô giáo cũng là sách thiêng trong Hồi giáo, có điều người ta coi nó không đầy đủ và hoàn thiện như Koran.

Năm Cột trụ của Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Năm Cột trụ của Hồi giáo

Có năm cột trụ của đạo Hồi - đồng thời là năm hành vi hành đạo bắt buộc đối với tất cả những tín đồ Hồi giáo[45]. Chúng bao gồm: Tuyên xưng Đức tin - Shahada (ٱلشَّهَادَةُ aš-šahādah), Cầu nguyện năm lần mỗi ngày - Salah (صَلاة ṣalāh), Bố thí - Zakat (زكاة), Nhịn ăn trong tháng Ramadan - Sawm (صوم) và Hành hương tới thánh địa Mecca - Hajj (حج‎ haǧǧ). Ngoài ra, các tín đồ Hồi giáo cũng thực hiện những hành vi tôn giáo khác.

Tuyên xưng Đức tin - Shahada[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Shahada

Shahada (ٱلشَّهَادَةُ aš-šahādah - Chứng ngôn) là lời khẳng định cho niềm tin trong Hồi giáo, có nội dung như sau:

أَشْهَدُ أَنْ لَا إِلَٰهَ إِلَّا ٱللَّٰهُ وَأَشْهَدُ أَنَّ مُحَمَّدًا رَسُولُ ٱللَّٰهِ

(ašhadu ʾan lā ʾilāha ʾilla -llāhu, wa-ʾašhadu ʾanna muḥammadan rasūlu -llāh)

Tôi thừa nhận rằng không có thánh thần nào ngoài Allah, và tôi chứng nhận Muhammad là sứ giả của Ngài.

Chứng ngôn Shahada là điều kiện duy nhất cần thiết để một người có thể trở thành tín đồ Hồi giáo, hoặc để cải đạo sang đạo Hồi[46].

Cầu nguyện - Salah[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Salah

Hành động cầu nguyện trong đạo Hồi được gọi là Salah (đôi khi là Salat, từ gốc tiếng Ả Rập: الصلاة) được coi là cách kết nối mỗi cá nhân với Allah, gồm có một chuỗi các hành động được lặp lại gọi là rakat. Việc cầu nguyện được thực hiện năm lần một ngày, sử dụng nguyên văn tiếng Ả Rập và thường là các câu, trích đoạn trong kinh Qur’an[47][48], hướng về phía của Kaaba. Trước khi thực hiện hành động cầu nguyện, các tín đồ được yêu cầu vệ sinh bản thân mình như rửa tay, mặt và chân của mình, việc này được gọi là wudu (الوضوء al-wuḍū - Sự thanh tẩy).

Bố thí - Zakat[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Zakat

Zakat (زكاة - sự thanh lọc) có bản chất là một hành động phúc lợi xã hội trong cộng đồng Hồi giáo, mà ở đó mỗi tín đồ (nếu như có khả năng) sẽ trích một phần tài sản của mình, thường vào khoảng 2,5% để giúp đỡ những hoàn cảnh nghèo khó, yếu thế, nợ nần, những người du hành[49]. Có năm quy tắc cơ bản mà một tín đồ phải tuân theo khi thực hiện Zakat:

  1. Người thực hiện phải tuyên thệ với Allah chủ đích của họ khi thực hiện bố thí.
  2. Zakat phải được thực hiện ngay, ít sự chậm trễ nhất có thể, chậm nhất là trong ngày.
  3. Sau khi bố thí, người thực hiện không được phép tiêu tiền nhiều hơn bình thường.
  4. Việc bố thí phải được diễn ra trên sự hảo tâm. Nếu một người có đủ điều kiện, họ phải trích một phần tài sản, nhưng nếu như không có nhiều, họ có thể thực hiện Zakat qua những cách khác, như có những hành động tốt, hành vi tốt với mọi vật - mọi người xung quanh.
  5. Người thực hiện Zakat ở đâu, số tài sản để bố thí phải quay trở lại cộng đồng ở đó

Nhịn ăn - Sawm[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Sawm

Cột trụ thứ tư của Hồi giáo là Sawm, tức nhịn ăn. Việc nhịn ăn này được diễn ra trong tháng Ramadan - là tháng lễ theo lịch Hồi giáo.

Việc nhịn ăn được diễn ra từ trước khi mặt trời mọc cho tới khi kết thúc hoàng hôn, trong khoảng thời gian đó các tín đồ không được phép bỏ bất cứ thứ gì vào miệng (việc ăn - uống, hút thuốc hoặc kể cả nói xấu người khác) và các hành vi tình dục. Lý do cho hành vi nhịn ăn này là để nhắc nhở các tín đồ Hồi giáo về việc tất cả đều được ban ân bởi Allah, và có những hoàn cảnh kém may mắn hơn cần sự giúp đỡ của họ. Ramadan cũng là thời gian để các tín đồ củng cố niềm tin của mình, hoạt động thiện nguyện và thú tội.

Hành hương - Hajj[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Hajj

Trong cuộc đời của một tín đồ, nếu có khả năng - họ sẽ phải thực hiện một chuyến hành hương tới thánh địa Mecca trong tháng 12 theo lịch Hồi giáo. Khi tới Mecca, tín đồ nam chỉ được mặc áo choàng đơn sơ, tín đồ nữ sẽ mặc một bộ đồ giản dị hơn trang phục thường ngày, để nhắc nhở rằng tất cả mọi người đều bình đẳng trước Allah. Trong quá trình thực hiện Hajj, tín đồ sẽ đi vòng quanh Kaaba bảy lần, chạm vào Viên Đá Đen (ٱلْحَجَرُ ٱلْأَسْوَد, al-Ḥajaru al-Aswad), đi qua Safa và Marwa bảy lần và thực hiện Jamarat (رمي الجمرات ramy al-jamarāt).

Sự phân chia Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhánh của Hồi giáo
Phân bố của các nhánh Hồi giáo
Các quốc gia Hồi giáo: hệ phái Shia màu đỏ; hệ phái Sunni màu lục

Đến nay Hồi giáo đã chia ra làm nhiều nhánh với những giáo lý và quan điểm chính trị khác biệt.

Sunni[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Sunni

Hồi giáo dòng Sunni chiếm 75%–90% số người theo Đạo Hồi.[50] Dòng Sunni cũng có tên Ahl as-Sunnah nghĩa là "người truyền thống [của Muhammad]".[51]

Người theo Sunni tin rằng bốn Khalip đầu tiên là những người thừa kế hợp pháp của Muhammad; vì Chúa không chỉ định bất kỳ lãnh đạo đặc biệt nào để kế thừa ông và những người này được bầu ra. Người theo Sunni tin rằng bất cứ ai là người công chính và chỉ có thể là một khalip nhưng họ phải hành động theo kinh Qur'an và Hadith (tuyển tập lời dạy của Muhammad).

Sunni theo Quran, sau đó là Hadith. Sau đó, các vấn đề pháp lý không được tìm thấy trong Kinh Qur'an hoặc Hadith, họ theo bốn madh'habs (trường phái tư tưởng): HanafiHanbaliMaliki và Shafi'i, được thành lập xung quanh những lời dạy tương ứng của Abū HanifaAhmad bin HanbalMalik ibn Anas và al-Shafi'i.

Tất cả bốn chấp nhận tính hợp pháp của nhau và Đạo Hồi có thể chọn bất kỳ một để theo.[52] Salafi (hay Ahl al-Hadith (Arabic: أهل الحديث; The people of hadith), hoặc từ miệt thị Wahhabi theo cách gọi của đối thủ họ) là một phong trào Hồi Giáo cực kỳ đề cao sự "chính thống" đã đưa lớp người Hồi Giáo đầu tiên là một hình mẫu điển hình.[53]

Shia[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Shia

Shi'a chiếm 10–20% số người theo đạo Hồi và là nhánh lớn thứ 2.[24]

Trong khi Sunni tin rằng Muhammad không chỉ định một người kế nhiệm và do đó kế nhiệm ông sẽ được chọn bởi cộng đồng thì Shia tin rằng trong lần hành hương cuối cùng của Muhammad đến Mecca, ông đã chỉ định con nuôi của ông là Ali ibn Abi Talib, làm người kế vị trong Hadith of the pond of Khumm. Và thế là họ tin rằng Ali ibn Abi Talib là Imam (lãnh đạo) đầu tiên, và bác bỏ tính hợp pháp của các khalip Hồi giáo trước Abu BakrUthman ibn al-Affan và Umar ibn al-Khattab.

Hồi giáo Shia có nhiều nhánh, nhánh lớn nhất là Twelvers phát triển phần lớn ở IranIraqAzerbaijanBahrainẤn ĐộPakistan và Liban. Tiếp theo là Zaidis và Ismaili. Sau cái chết của Imam Jafar al-Sadiq (cháu lớn của Abu Bakr và Ali ibn Abi Talib) được xem là lãnh tụ thứ sáu của người Shia, Ismailis bắt đầu theo con trai ông Isma'il ibn Jafar và Twelver Shia's (Ithna Asheri) bắt đầu theo con trai khác của ông Musa al-Kazim làm Imam thứ 7. Zaydis theo Zayd ibn Ali, chú của lãnh tụ Jafar al-Sadiq, là lãnh tụ thứ 5.

Các nhóm khác nhỏ hơn gồm Bohra và Druze,[54] cũng như Alawites và Alevi.

Sufism[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Sufism

Sufism là một nhánh Hồi giáo thiên về chiều hướng thần bí, nội tâm của Islam nhằm mục đích đạt được sự hoàn thiện về đạo đức,sự hành đạo và đức tin (al-ihsan) và gần gũi với Đấng Tối cao Allah. Do đặc tính linh hoạt và nghiên về chiều hướng thần bí nên Sufism là nhánh Hồi giáo tiên phong mở đường trong công cuộc truyền bá Islam

Các dòng khác[sửa | sửa mã nguồn]

Thánh địa Mecca[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Thánh địa Mecca

Theo quy định của Hồi giáo, mỗi giáo dân ít nhất một lần trong cuộc đời phải hành hương về thánh địa Mecca bằng chính kinh phí của bản thân mình và trước khi đi phải chuẩn bị đồ ăn thức uống cho người thân (những người ở nhà, không đi hành hương) trong thời gian mà họ đi vắng. Vào tháng Ramadan, người Hồi giáo hành hương về đây (và chỉ có người Hồi giáo mới được về đây).[55][56] Sau khi hành hương đến Mecca, tín đồ đạo Hồi sẽ có được danh hiệu là "Haj" hoặc "Haji".

  • Hành hương tại Mecca, Ả Rập Saudi

    Hành hương tại Mecca, Ả Rập Saudi

  •  
  • Thánh địa Mecca năm 1850

    Thánh địa Mecca năm 1850

  •  
  • Tín đồ đi lễ quanh đền Kaaba

    Tín đồ đi lễ quanh đền Kaaba

Chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]

Bức tranh minh họa Inferno (thế kỷ 19) của William Blake cho thấy Muhammad đang phanh ngực đã bị một con quỷ rạch đôi để tượng trưng cho vai trò của ông là một " tiên tri giả ".[57]

Sự chỉ trích Hồi giáo đã tồn tại từ giai đoạn hình thành của Hồi giáo. Những lời chỉ trích ban đầu đến từ các tác giả Kitô giáo, nhiều người trong số họ xem Hồi giáo là một dị giáo của Kitô giáo hoặc một hình thức thờ hình tượng và thường giải thích nó bằng những từ ngữ khải huyền.[58] Sau đó xuất hiện những lời chỉ trích từ chính thế giới Hồi giáo, và cả từ các nhà văn Do Thái và từ các Kitô hữu thuộc giáo hội.[59][60][61] Các vấn đề liên quan đến tính xác thực và đạo đức của Kinh Qur'an, cuốn sách thánh Hồi giáo, cũng được các nhà phê bình thảo luận.[62][63]

Hình ảnh phỉ báng Muhammad, bắt nguồn từ những mô tả đầu thế kỷ thứ 7 của Nhà thờ Byzantine,[64] xuất hiện trong bài thơ sử thi thế kỷ 14 Hài kịch thần thánh của Dante Alighieri.[65] Trong tác phẩm, Muhammad xuất hiện trong vòng tròn địa ngục thứ tám, cùng với Ali. Dante không đổ lỗi cho đạo Hồi nói chung, nhưng buộc tội Muhammad về việc ly giáo, bằng cách thành lập một tôn giáo khác sau Kitô giáo.[65] Mặt khác, Giám mục Chính thống Hy Lạp Paul of Antiorch chấp nhận Muhammed là một nhà tiên tri, nhưng không phải nhiệm vụ của ông là phổ quát. Vì luật của Chúa Kitô vượt trội hơn luật Hồi giáo, Muhammad chỉ được lệnh tới khu vực người Ả Rập, khu vực mà chưa một nhà tiên tri nào được gửi đến.[66]

Các bài viết xin lỗi, được cho là của Abdullah Ibn al-Muqaffa, không chỉ bảo vệ thuyết Manichae chống lại Hồi giáo, mà còn phê phán khái niệm Hồi giáo về Thiên Chúa. Theo đó, vị thần trong kinh Qu'ran bị coi là một thể ma quỷ bất công, chuyên chế, phi lý và xấu xa, người "chiến đấu với con người và tự hào về chiến thắng của mình" và "ngồi trên ngai vàng, từ đó Ngài giáng trần".[67][68]

Kể từ sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, Hồi giáo đã phải đối mặt với những lời chỉ trích về kinh sách và giáo lý của nó là một nguồn đáng kể của chủ nghĩa khủng bố và tư tưởng khủng bố.[69][70]

Những chỉ trích khác tập trung vào câu hỏi về quyền con người ở các quốc gia đa số Hồi giáo hiện đại, và đối xử với phụ nữ trong luật pháp và thực hành Hồi giáo.[71][72] Trước xu hướng đa văn hóa gần đây, ảnh hưởng của Hồi giáo đối với khả năng đồng hóa của người Hồi giáo ở phương Tây đã bị chỉ trích.[73] Cả trong cuộc sống công cộng và cá nhân của mình, những người khác đều phản đối đạo đức của Muhammad, do đó cũng phản đối sunnah như một hình mẫu.[61][74]

Người Tatars theo Tengri giáo chỉ trích Hồi giáo là một tôn giáo semitic, mà đã buộc người Thổ Nhĩ Kỳ phải phục tùng một nền văn hóa ngoại lai. Sự khuất phục và khiêm nhường, hai thành phần quan trọng của tâm linh Hồi giáo, bị coi là những thất bại lớn của Hồi giáo, không phải là phẩm chất tốt. Hơn nữa, vì Hồi giáo đề cập đến lịch sử semitic như thể đó là lịch sử của cả nhân loại, nhưng coi thường các thành phần của các nền văn hóa và tâm linh khác, cách tiếp cận quốc tế của Hồi giáo được coi là một mối đe dọa. Nó cũng cho Imams một cơ hội để tuần hành chống lại chính người dân của họ dưới biểu ngữ của Hồi giáo quốc tế.[75]

Các quốc gia có số dân theo Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Hồi giáo theo quốc gia

Tỷ lệ dân mỗi nước theo đạo Hồi

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Có mười cách phát âm của Islam trong tiếng Anh, khác nhau về âm tiết thứ nhất hay âm tiết thứ hai có trọng âm hay không, là /z/ hay /s/, và cho dù được phát âm /ɑː/, /æ/ hay (khi trọng âm ở âm tiết thứ nhất) /ə/ (Merriam Webster). Phổ biến nhất là /ɪzlm[invalid input: ', _']ˈsləm[invalid input: ', _']ɪzˈlɑːm[invalid input: ', _']sˈlɑːm/ và /zlm[invalid input: ', _']ɪslm/..

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ John L. Esposito biên tập (2009). “Islam. Overview”. The Oxford Encyclopedia of the Islamic World. Oxford: Oxford University Press. doi:10.1093/acref/9780195305135.001.0001ISBN 9780195305135Profession of Faith [...] affirms Islam's absolute monotheism and acceptance of Muḥammad as the messenger of God, the last and final prophet.
  2. a b John L. Esposito biên tập (2009). “Allāh”. The Oxford Encyclopedia of the Islamic World. Oxford: Oxford University Press. doi:10.1093/acref/9780195305135.001.0001ISBN 9780195305135the Muslims' understanding of Allāh is based [...] on the Qurʿān's public witness. Allāh is Unique, the Creator, Sovereign, and Judge of humankind. It is Allāh who directs the universe through his direct action on nature and who has guided human history through his prophets, Abraham, with whom he made his covenant, Moses, Jesus, and Muḥammad, through all of whom he founded his chosen communities, the 'Peoples of the Book.'
  3. a b “The Global Religious Landscape”. ngày 18 tháng 12 năm 2012.
  4. ^ According to Oxford Dictionaries Lưu trữ 2016-07-29 tại Wayback Machine, "Muslim is the preferred term for 'follower of Islam,' although Moslem is also widely used."
  5. ^ Campo, Juan Eduardo (2009). “Allah”Encyclopedia of Islam. Infobase Publishing. tr. 34. ISBN 978-1-4381-2696-8.
  6. ^ Ibrahim Kalin biên tập (2014). “Environment”. The Oxford Encyclopedia of Philosophy, Science, and Technology in Islam. Oxford: Oxford University Press. doi:10.1093/acref:oiso/9780199812578.001.0001ISBN 9780199812578When Meccan pagans demanded proofs, signs, or miracles for the existence of God, the Qurʾān's response was to direct their gaze at nature's complexity, regularity, and order. The early verses of the Qurʾān, therefore, reveal an invitation to examine and investigate the heavens and the earth, and everything that can be seen in the environment [...] The Qurʾān thus makes it clear that everything in Creation is a miraculous sign of God (āyah), inviting human beings to contemplate the Creator.
  7. ^ “People of the Book”Islam: Empire of Faith. PBS. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2010.
  8. ^ Reeves, J.C. (2004). Bible and Qurʼān: Essays in scriptural intertextuality. Leiden [u.a.: Brill. p. 177
  9. ^ Moghul, Haroon. “Why Muslims celebrate a Jewish holiday”. CNN. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2018.
  10. ^ Bennett (2010)
  11. ^ “Eschatology – Oxford Islamic Studies Online”www.oxfordislamicstudies.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2018.
  12. ^ “Paradise (Jannat)”Al-Islam.org. ngày 26 tháng 4 năm 2016.
  13. a b c Esposito (2002b)
  14. ^ “British & World English: sharia”. Oxford: Oxford University Press. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  15. ^ Trofimov, Yaroslav (2008), The Siege of Mecca: The 1979 Uprising at Islam's Holiest Shrine, New York, tr. 79, ISBN 978-0-307-47290-8
  16. ^ Esposito, John (1998). Islam: The Straight Path (3rd ed.). Oxford University Press. tr. 9, 12. ISBN 978-0-19-511234-4.
  17. ^ Peters, F.E. (2003). Islam: A Guide for Jews and Christians. Princeton University Press. tr. 9ISBN 978-0-691-11553-5.
  18. ^ Watt, William Montgomery (2003). Islam and the Integration of Society (bằng tiếng Anh). Psychology Press. tr. 5. ISBN 9780415175876.
  19. ^ George Saliba (1994), A History of Arabic Astronomy: Planetary Theories During the Golden Age of Islam, pp. 245, 250, 256–257. New York University PressISBN 0-8147-8023-7.
  20. ^ King, David A. (1983). “The Astronomy of the Mamluks”. Isis74 (4): 531–555. doi:10.1086/353360.
  21. ^ Hassan, Ahmad Y (1996). “Factors Behind the Decline of Islamic Science After the Sixteenth Century”. Trong Sharifah Shifa Al-Attas (biên tập). Islam and the Challenge of Modernity, Proceedings of the Inaugural Symposium on Islam and the Challenge of Modernity: Historical and Contemporary Contexts, Kuala Lumpur, August 1–5, 1994. International Institute of Islamic Thought and Civilization (ISTAC). tr. 351–399. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  22. ^ The preaching of Islam: a history of the propagation of the Muslim faith By Sir Thomas Walker Arnold, pp. 125–258
  23. ^ Lỗi chú thích: Thẻ  sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Sunni-eb
  24. a b See
    • “Mapping the Global Muslim Population: A Report on the Size and Distribution of the World's Muslim Population”Pew Research Center. ngày 7 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013. The Pew Forum's estimate of the Shia population (10–13%) is in keeping with previous estimates, which generally have been in the range of 10–15%. Some previous estimates, however, have placed the number of Shias at nearly 20% of the world's Muslim population.
    • “Shia”. Berkley Center for Religion, Peace, and World Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011. Shi'a Islam is the second largest branch of the tradition, with up to 200 million followers who comprise around 15% of all Muslims worldwide...
    • “Religions”The World Factbook. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. Shia Islam represents 10–20% of Muslims worldwide...
  25. ^ “10 Countries With the Largest Muslim Populations, 2010 and 2050date = ngày 2 tháng 4 năm 2015”Pew Research Center's Religion & Public Life Project. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2017.
  26. ^ Pechilis, Karen; Raj, Selva J. (2013). South Asian Religions: Tradition and Today (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 193ISBN 9780415448512.
  27. ^ Diplomat, Akhilesh Pillalamarri, The. “How South Asia Will Save Global Islam”The Diplomat (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2017.
  28. ^ “Middle East-North Africa Overview”Pew Research Center's Religion & Public Life Project (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2018.
  29. ^ “Region: Middle East-North Africa”The Future of the Global Muslim Population. Pew Research Center. ngày 27 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  30. ^ “Region: Sub-Saharan Africa”The Future of the Global Muslim Population. Pew Research Center. ngày 27 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  31. ^ “Muslim Population by Country”The Future of the Global Muslim Population. Pew Research Center. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  32. ^ “Islam in Russia”www.aljazeera.comBản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  33. ^ “Main Factors Driving Population Growth”Pew Research Center's Religion & Public Life Project (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  34. ^ Burke, Daniel (ngày 4 tháng 4 năm 2015). “The world's fastest-growing religion is...”. CNN. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2015.
  35. ^ Lippman, Thomas W. (ngày 7 tháng 4 năm 2008). “No God But God”. U.S. News & World Report. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013. Islam is the youngest, the fastest growing, and in many ways the least complicated of the world's great monotheistic faiths. It is based on its own holy book, but it is also a direct descendant of Judaism and Christianity, incorporating some of the teachings of those religions—modifying some and rejecting others.
  36. ^ "Manuel d'Histoire, de Généalogie et de Chronologie de tous les Etats du Globe depuis les temps les plus reculés jusqu'à nos jours", Stokvis A.M.H.J., tr 184-186.
  37. a b "Islam in Traditional China. A short history to 1800." Donald. D. Leslie, tr. 196.
  38. ^ "Trung Quốc Sử Lược". Phan Khoang.
  39. ^ "Le Prophète de l'Islam, sa vie, son oeuvre", Muhammad Hamidullah, tr. 329.
  40. ^ "Musulmans de Chine - Une anthropologie des Hui du Henan", Elisabeth Allès, tr. 31.
  41. ^ Từ điển Hán - Việt, Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh, 1994, tr. 547.
  42. ^ Từ điển Hán - Việt, Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh, 1994, tr. 780.
  43. ^ Thịt heo qua Cựu ước-Tân ước-Qur'an và y học
  44. ^ “Tại sao cờ bạc bị cấm trong Hồi giáo (bị cấm)?”13.250.159.90 (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2018.
  45. ^ “Pillars of Islam | Islamic Beliefs & Practices | Britannica”www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2022.
  46. ^ Galonnier, Juliette (1 tháng 10 năm 2021). Moving In or Moving Toward? Reconceptualizing Conversion to Islam as a Liminal Process1 (bằng tiếng Anh). University of Texas Press. doi:10.7560/317471-003ISBN 978-1-4773-1749-5.
  47. ^ dx.doi.org http://dx.doi.org/10.12952/journal.elementa.000134.t003. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2022. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  48. ^ “Soldering and brazing”Smithells Metals Reference Book, Elsevier, tr. 34–1-34-22, 2004, truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2022
  49. ^ The Islamic voluntary sector in Southeast Asia : Islam and the economic development of Southeast Asia. Mohamed Ariff, Institute of Southeast Asian Studies. Pasir Panjang, Singapore: Institute of Southeast Asian Studies. 1991. ISBN 981-3016-07-8OCLC 31311216.
  50. ^ See:
  51. ^ * “Islam Today”Islam: Empire of Faith (2000)PBS. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. Islam, followed by more than a billion people today, is the world's third fastest growing religion.
    • Lippman, Thomas W. (ngày 7 tháng 4 năm 2008). “No God But God”U.S. News & World Report. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013. Islam is the youngest, the fastest growing, and in many ways the least complicated of the world's great monotheistic faiths. It is a unique religion based on its own holy book, but it is also a direct descendant of Judaism and Christianity, incorporating some of the teachings of those religions—modifying some and rejecting others.
    • “Understanding Islam”Susan Headden. U.S. News & World Report. ngày 7 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
    • “Major Religions of the World Ranked by Number of Adherents”Adherents.comBản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2007.
  52. ^ See:
    • Esposito (2003, tr. 275,306)
    • “Shariah”. Encyclopædia Britannica Online.
    • “Sunnite”. Encyclopædia Britannica Online.
  53. ^ Salafi Islam GlobalSecurity.org. Truy cập 2010-11-09.
  54. ^ See:
  55. ^ Peters, Francis E. (1994). The Hajj: The Muslim Pilgrimage to Mecca and the Holy Places. Princeton University Press. tr. 206ISBN 0-691-02619-X.
  56. ^ Esposito, John L. (2011). What everyone needs to know about IslamOxford University Press. tr. 25. ISBN 9780199794133Mecca, like Medina, is closed to non-Muslims
  57. ^ “Divine Comedy (Longfellow 1867)/Volume 1/Canto 28 - Wikisource, the free online library”. ngày 4 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2018.
  58. ^ Erwin Fahlbusch (1999). The Encyclopedia of Christianity, Volume 2. Wm. B. Eerdmans Publishing. tr. 759. ISBN 9789004116955.
  59. ^ Warraq, Ibn (2003). Leaving Islam: Apostates Speak Out. Prometheus Books. tr. 67ISBN 978-1-59102-068-4.
  60. ^ Kammuna, Ibn (1971). Examination of the Three Faiths. Berkeley and Los Angeles: Moshe Perlmann. tr. 148–149.
  61. a b Oussani, Gabriel. “Mohammed and Mohammedanism”Newadvent.org. Catholic Encyclopedia. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2006.
  62. ^ Bible in Mohammedian Literature., by Kaufmann Kohler Duncan B. McDonald, Jewish Encyclopedia. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2006.
  63. ^ Spencer, Robert (2002). Islam Unveiled: Disturbing Questions About the World's Fastest Growing Faith. Encounter Books. tr. 22–63. ISBN 978-1-893554-58-0.
  64. ^ Minou Reeves, P. J. Stewart Muhammad in Europe: A Thousand Years of Western Myth-Making NYU Press, 2003 ISBN 9780814775646 p. 93-96
  65. a b G. Stone Dante’s Pluralism and the Islamic Philosophy of Religion Springer, 12.05.2006 ISBN 9781403983091 p. 132
  66. ^ Hugh Goddard A History of Christian-Muslim Relations New Amsterdam Books, 05.09.2000 ISBN 9781461636212 p. 65
  67. ^ Tilman Nagel Geschichte der islamischen Theologie: von Mohammed bis zur Gegenwart C.H. Beck 1994 ISBN 9783406379819 p. 215
  68. ^ Camilla Adang, Hassan Ansari, Maribel Fierro, Sabine Schmidtke Accusations of Unbelief in Islam: A Diachronic Perspective on Takfīr' BRILL, 30.10.2015 ISBN 9789004307834 p. 61
  69. ^ “Islam and the Patterns in Terrorism and Violent Extremism”www.csis.org. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2019.
  70. ^ “How Many Muslims Still Support Terrorism?”www.telospress.com. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2019.
  71. ^ “Saudi Arabia – Country report – Freedom in the World – 2005”. ngày 13 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2019.
  72. ^ Timothy Garton Ash (ngày 5 tháng 10 năm 2006). “Islam in Europe”The New York Review of Books.
  73. ^ Modood, Tariq (ngày 6 tháng 4 năm 2006). Multiculturalism, Muslims and Citizenship: A European Approach (ấn bản 1). Routledge. tr. 29. ISBN 978-0-415-35515-5.
  74. ^ Warraq, Ibn (2000). The Quest for Historical Muhammad (ấn bản 1). Amherst, MA: Prometheus Books. tr. 103ISBN 978-1-57392-787-1.
  75. ^ Dudolgnon Islam In Politics In Russia Routledge, 05.11.2013 ISBN 9781136888786 p. 301-304

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Islam in Traditional China. A short history to 1800.", Donald D. Leslie, Canberra College of Advanced Education (CCAE), Canberra 1986.
  • "Le Prophète de l'Islam, sa vie, son oeuvre", Muhammad Hamidullah, Editions El-Najah, 6ème édition augmentée, Paris 1998.
  • "Manuel d'Histoire, de Généalogie et de Chronologie de tous les Etats du Globe depuis les temps les plus reculés jusqu'à nos jours", Stokvis A.M.H.J., Leiden, 1888-1893 (ré-édition en 1966 par B.M.Israel).
  • "Musulmans de Chine - Une anthropologie des Hui du Henan", Elisabeth Allès, Editions EHESS, Paris 2000.
  • "Trung Quốc Sử Lược", Phan Khoang, bản in lần thứ ba, Sài gòn và Huế 1958.
  • "Từ điển Hán - Việt", Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh, 1994.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hồi giáo.

Thông tin thêm

Hồi giáo tại Việt Nam

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bạn có tin nhắn mới Tin nhắn! (thay đổi gần đây).

Một nhà thời Hồi giáo ở thành phố Hồ Chí Minh

Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, cộng đồng Hồi giáo chỉ chiếm một tỷ lệ thấp so với toàn thể dân số Việt Nam (0.1%).

Thời kỳ truyền đạo[sửa | sửa mã nguồn]

Theo một số tài liệu thì Othman bin Affan, vị khalip thứ ba của đạo Hồi, đã cử tín đồ đạo Hồi đại diện đầu tiên đến Trung Hoa và một số quốc gia ở Đông Nam Á vào thời kỳ nhà Đường ở Trung Quốc vào khoảng năm 650.[cần dẫn nguồn] Có lẽ trong những năm đầu tiên sau khi đạo Hồi khai sáng, thương nhân Ả Rập đi đường biển đã dừng chân tại vương quốc Champa trên đường đến Trung Quốc. Tuy nhiên chứng cớ trong văn tịch chỉ có từ thời nhà Tống. Điều này cho biết người Chăm bắt đầu tiếp nhận đạo Hồi từ cuối thế kỷ X sang đầu thế kỷ XI,[1][2] bên cạnh tôn giáo chính là Ấn Độ giáo và một thiểu số theo đạo Phật.

Số tín đồ tăng dần qua liên hệ với vua Hồi xứ Malacca nhưng phải đến thế kỷ XVII sau khi Champa bị Việt Nam thôn tính thì đạo Hồi mới trở nên thịnh hành với người Chăm[3], do tình hình chiến tranh liên miên và thất bại, vương triều dần suy yếu và niềm tin vào đạo Hinđu dần giảm sút nên đạo Hồi đã bám rễ được vào một bộ phận người Chăm. Nhiều nhóm Chăm Hồi giáo đã di cư sang Cao Miên (Kong pong Chàm và nhiều nơi khác) cư trú rồi một số lại chuyển sang Nam Bộ (An GiangTây Ninh), thậm chí sang cả MalaysiaThái LanIndonesia.

Giai đoạn phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Một thánh đường Hồi giáo Chăm Islam của người Chăm ở Châu ĐốcAn Giang.

Vào giữa thế kỷ XIX, với sự thống trị của người Pháp ở Đông Dương, nhiều tín đồ đạo Hồi người Chăm đã di cư ngược từ Cao Miên vào vùng Đồng bằng sông Cửu Long, phát triển cộng đồng Hồi giáo ở Việt Nam. Điều này lý giải vì sao các tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam tập trung chủ yếu từ miền Trung đổ vào miền Nam Việt Nam.

  • Hồi giáo ở miền Nam Việt Nam là Hồi giáo Chăm Islam, gần như theo Hồi giáo chính thống, thuộc dòng Sunni, ít bị pha trộn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng cũ và thường xuyên liên hệ với thế giới Hồi giáo Campuchia và Malaysia[4].
    • Khi người Chăm từ Chiêm Thành sang Chân Lạp tị nạn, họ đã sống cộng cư cùng người Mã Lai Hồi giáo tại Chân Lạp (gọi là Java, Jawa, Chvea, Chà-và...).
    • Hồi giáo tại Chân Lạp do đó có sự liên hệ nhiều tới thế giới Hồi giáo bên ngoài nên một số nhóm ít bị "địa phương hóa". Do vậy, không thể nói toàn bộ người Chăm ở Chân Lạp là những người hoàn toàn theo Hồi giáo chính thống.
    • Khi người Chăm (và người Chvea) từ Chân Lạp về Tây Ninh và An Giang định cư, họ mang theo Hồi giáo có sẵn từ Chân Lạp về. Sau đó trong chính cộng đồng này lại phát sinh thêm sự phân hóa giữa nhóm Kaum Tua (người cũ, muốn giữ Hồi giáo đã có sẵn từ lúc ở Chân Lạp về Việt Nam) và nhóm Kaum Muda (ngưới mới, là người đi du học ở Malaysia về và muốn cải cách Hồi giáo cho giống với Malaysia theo hệ phái Shafi'i (شافعي, Shāfiʿī, Salafiyah))

Hồi giáo Mã Lai có ảnh hưởng lớn với cộng đồng người Chăm qua những bài khutba soạn bằng tiếng Mã Lai. Người Chăm cũng thường tìm sang Malaysia tu học giáo lý và tiếp nhận tư tưởng đạo Hồi qua sự diễn dịch của người Hồi Mã Lai [5][6].

Các làng Chăm ở tỉnh An Giang (huyện An Phú, Châu Phú, Châu Thành, thị xã Tân Châu).

Từ thời Pháp thuộc, tại Nam Kỳ đã có tổ chức Saykhon Islam đại diện cộng đồng Hồi giáo cho người Chăm và Mã Lai. Năm 1960, dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, cộng đồng người Chăm Hồi giáo lập ra "Hiệp hội Chăm Hồi giáo Việt Nam" có văn phòng đặt tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hoà. Năm 1966, có thêm tổ chức "Hội đồng giáo cả các Thánh đường Hồi giáo Việt Nam" đặt văn phòng tại Châu Đốc. Cả hai tổ chức này cùng tồn tại cho đến tận năm 1975.

Hiện trạng Hồi giáo tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Một thánh đường Hồi giáo của người Chăm ở Ninh Thuận

Sau năm 1975 với cuộc chiến Việt Nam kết thúc, một bộ phận trong số 55.000 tín đồ đạo Hồi người Chăm tại Việt Nam đã trốn sang Malaysia. Ở Yemen cũng có 1.750 người tỵ nạn Việt Nam gốc Chăm, hầu hết định cư ở Ta'izz. Tuy nhiên, hầu hết các tín đồ ở lại Việt Nam vẫn được phép sinh hoạt tôn giáo như bình thường cho dù những thánh đường Hồi giáo bị đóng cửa, cũng như các cơ sở giáo dục của người Hồi giáo bị trưng dụng bởi chính quyền cộng sản.[7] So với các tôn giáo khác, tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam chiếm tỷ lệ rất thấp cũng như không có những va chạm với chính quyền, vì vậy chính quyền ít kỳ thị và kiểm soát chặt chẽ tín đồ. Vào năm 1981, khách nước ngoài đến Việt Nam vẫn được tự do nói và cầu nguyện bằng tiếng bản xứ của họ. Vào năm 1985, các thánh đường Hồi giáo tại miền Nam được cho phép mở cửa lại, thậm chí, chính quyền còn cho phép thành lập tổ chức Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1992. Ước tính, ngoài những tín đồ người Chăm, cũng có những tín đồ người IndonesiaMalaysiaPakistanYemenOman, và người Nam Phi; với khoảng 10000 người vào thời điểm đó.[3]. Năm 2004, một Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo khác cũng được thành lập ở An Giang.

Tháng 1 năm 2006, Thánh đường Hồi giáo tại xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đã được xây dựng lại trên nên giáo đường cũ dựa trên sự đóng góp một phần từ Ả Rập Xê Út[8][9]. Đây được xem là một trong những sự liên hệ trực tiếp trở lại của tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam với thế giới Hồi giáo Ả Rập. Tiếp sau đó, Thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam (tính đến hết năm 2009) đã được xây dựng tại ấp Đồng Ki, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang, khởi công vào ngày 7 tháng 4 năm 2008 và khánh thành ngày 3 tháng 12 năm 2009, với tổng kinh phí thực hiện 5,8 tỷ đồng, trong đó có một phần kinh phí do Hội Trăng lưỡi liềm đỏ (Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất) ủng hộ[10]. Năm 2017, Thổ Nhĩ Kỳ cho khánh thành nhà thờ Hồi giáo Kahramanlar Rahmet ở An Giang.[11]

Các tổ chức Hồi giáo ở Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với Chăm Islam, trước năm 1975, ở miền Nam, Hồi giáo có hai tổ chức chính thức là: "Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam" và "Hội đồng giáo cả Islam Việt Nam". Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành của Ban Quản trị Hiệp hội Trung ương và Đại hội đồng cơ sở. Nhằm mục đích: không hoạt động chính trị mà duy trì những tinh hoa đạo đức trong sinh hoạt tôn giáo; thực thi các tập tục truyền thống và đời sống đạo đã được kinh Qur'an giáo huấn. Tuy nhiên, cả hai tổ chức này nhất là Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam bị chính quyền Mỹ và Sài Gòn lợi dụng, sử dụng làm công cụ chống Cộng. Do đó, nó cùng tồn tại đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì tự giải tán theo sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn.[cần dẫn nguồn]

Từ sau năm 1975 đến trước khi có chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đối với Hồi giáo, ở Việt Nam mới có một tổ chức là Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh được thành lập tháng 7 năm 1992. Từ năm 2003 (thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác Hồi giáo), Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnhthành phố có Hồi giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo về mặt tổ chức cho tín đồ. Đến nay, đối với Chăm Islam, có thêm hai tổ chức Hồi giáo cấp tỉnh ở tỉnh An Giang và Tây Ninh;

Thánh đường Hồi giáo nổi tiếng tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện nay ở Việt Nam có hơn 40 Thánh đường Islam (Masjid) và 25 surao (nơi cầu nguyện nhỏ hơn thánh đường)[12]. Do tín đồ Hồi giáo Islam tại Việt Nam (khoảng 25.000 tín đồ, chiếm khoảng 42% tín đồ Hồi giáo) tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh và An Giang, nên hầu hết các thánh đường lớn đều tập trung ở đây.

  • Thánh đường Mubarak ở xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, là nơi có cho phép du khách vào tham quan. Đây là thánh đường Hồi giáo đầu tiên ở tỉnh An Giang, ra đời vào năm 1750. Đây cũng là một trong những thánh đường Hồi giáo có lối thảm cho nữ giới vào thánh đường. Ngoài ra ở đây có làng Chăm Châu Giang nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm.
Thánh đường Hồi giáo Masjid Khairiyah ở xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Một số thánh đường Hồi giáo nổi tiếng tại Việt Nam:

  • Thánh đường Al Rahman ở 45 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Thánh đường này chủ yếu dành cho người Malaysia và người Indonesia.
  • Thánh đường Jamia Al Noor ở 12 Hàng Lược, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là thánh đường Hồi giáo duy nhất ở miền Bắc Việt Nam.
  • Thánh đường Jamia Al Muslimin (Musulman) ở 66 Đông Du, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (hay còn gọi là Thánh đường Đông Du). Thánh đường này được xây dựng vào năm 1935 bởi người Hồi giáo Ấn Độ, được xem thánh đường Hồi giáo lớn nhất tại thành phố Hồ Chí Minh.
  • Thánh đường Jamiul Islam ở 52 Nguyễn Văn Trỗi, Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một thánh đường của người Chăm và cũng là Văn phòng Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Thánh đường Jamiul Muslimin ở ấp Đồng Ki, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Đây là thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam tính đến năm 2014.
  • Thánh đường Nurul Al Ehsan ở xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai
  • Thánh đường Jamiul Al Azhar ở ấp Châu Giang, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Thánh đường được xây dựng từ những năm 60 của thế kỷ XX. Bên cạnh nơi sinh hoạt tôn giáo, còn có 1 trường học dạy giáo lí Hồi giáo và thánh kinh Quran (Madrasa Tafiz Al Azhar)

Ảnh hưởng của Hồi giáo đối với cộng đồng Chăm ở Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Về mặt tôn giáo, người Chăm có ba cộng đồng tôn giáo khác nhau như Chăm Bàlamôn (ở Ninh ThuậnBình Thuận), Chăm Bàni (ở Ninh ThuậnBình Thuận), Chăm Islam (ở An GiangThành phố Hồ Chí MinhTây NinhBình DươngBình PhướcĐồng Nai và một số làng Chăm ở Ninh Thuận).

Đến năm 2001, theo số liệu khảo sát của Ban Tôn giáo chính phủ, có 39.288 người Chăm Bàni và 25.669 Chăm Islam.

Chăm Islam và Chăm Bàni có rất nhiều điểm khác biệt.

Chăm Islam ở Việt Nam là cộng đồng Chăm Hồi giáo thuộc dòng Sunni. Cộng đồng Chăm Bàni là kết quả của sự hỗn dung giữa: Phật Giáo, Hồi giáo nguyên thủy, Bàlamôn và tín ngưỡng dân gian chiếm vị trí vượt trội. Khác với người Chăm Islam, trong tâm thức tôn giáo của người Chăm Bàni, những tập tục, lễ nghi của Hồi giáo gốc đã bị phai nhạt đi khá nhiều bởi nhiều lý do, trong đó phải kể đến sự tác động của tín ngưỡng bản địa dân tộc Chăm và của đạo Bàlamôn. Bởi vậy, có thể nói Chăm Bàni là một tôn giáo đặc thù mang đậm tín ngưỡng bản địa. Trong khi đó, người Chăm Islam luôn giữ gìn nghiêm ngặt giáo lý, giáo luật của Hồi giáo nguyên thủy, thể hiện qua việc thực hiện nghiêm chỉnh 5 cốt đạo của Hồi giáo. Nếu như người Chăm Islam tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào Đấng Allah và tiên tri Mohammed thì đối với người Chăm Bàni, niềm tin của họ còn dành cho rất nhiều thần linh khác như Nữ thần sáng tạo ra dân tộc Chăm, những vị anh hùng dân tộc Chăm và chủ yếu là ông bà tổ tiên.

Một đặc điểm khác biệt rõ nét giữa người Chăm Islam và người Chăm Bàni là vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Trong khi người phụ nữ Chăm Islam chịu nhiều ràng buộc nghiêm ngặt trong các quan hệ gia đình và xã hội cũng như trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, thì phụ nữ Chăm Bàni không chỉ được bình đẳng, được khuyến khích vươn lên khẳng định vị trí của mình mà còn có nhiều ưu thế hơn so với nam giới do ảnh hưởng chế độ mẫu hệ đã đi sâu vào tiềm thức của họ.

Về cơ sở thờ tự: Thánh đường của người Chăm Islam có dáng dấp như các Thánh đường Hồi giáo trên thế giới bởi nó tôn trọng những quy định về kiến trúc xây dựng thánh đường và cách bài trí bên trong. Có hai loại: Đại thánh đường và tiểu thánh đường. Đại thánh đường được xây dựng theo hướng Đông – Tây để khi quỳ lạy, tín đồ hướng về Thánh địa Mecca. Bên trong đại thánh đường vừa có hậu tẩm là nơi vị Imâm đứng hướng dẫn tín đồ hành lễ, vừa có Minbar là nơi thầy Khotip giảng giáo lý. Tiểu Thánh đường còn gọi là nhà nguyện, là nơi cầu nguyện và hội họp. Theo thống kê, hiện nay Việt Nam có 41đại thánh đường và 14 tiểu thánh đường Islam, tập trung nhiều nhất ở An Giang (16 đại thánh đường và 8 tiểu thánh đường).

Số lượng chùa Bàni là 17 chùa, có ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Chùa Bàni được xây dựng khá đơn giản, hình thức bên ngoài cũng như cách xếp đặt bên trong đều có một sắc thái riêng biệt mang tính địa phương, không giống các thánh đường Hồi giáo trên thế giới. Chùa Bàni chỉ được mở cửa vào tháng Ramưwan – tháng vào chùa của các chức sắc Bàni. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của người Chăm Bàni mà còn là nơi các chức sắc trao đổi kinh nghiệm sản xuất với cộng đồng tín đồ, tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Chức sắc Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Người đứng đầu là vị Hakim (Giáo cả). Phụ tá cho Hakim là Naep (phó Giáo cả). Ahly là người giúp việc cho Hakim. Tuân là thầy dạy giáo lý cho tín đồ.

Tổ chức tôn giáo của người Chăm Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Người Chăm Islam thành lập các Ban Quản trị Thánh đường theo từng khu vực cư trú. Đứng đầu ban quản trị là vị Hakim, sau đó là một số chức sắc như: Naib, Ahly, thư ký, thủ quỹ.

Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1992, UBND Thành phố ra quyết định cho phép thành lập "Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh" trụ sở tại số nhà 15 đường Nguyễn Văn trỗi, phường 15, quận Phú Nhuận. Ngoài ra còn có ban cố vấn, bộ phận văn phòng và Ban quản trị của 14 khu vực. Ban đại diện là cầu nối giữa cộng đồng tín đồ Hồi giáo tại Thành phố và chính quyền để chăm lo lợi ích chính đáng của tín đồ, vận động tín đồ thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân, phát huy tình đoàn kết trong tín đồ.

Các nghi lễ tôn giáo cộng đồng[sửa | sửa mã nguồn]

Người Chăm theo Hồi giáo đều phải đến thánh đường làm lễ. Có khi một số người còn mang theo thực phẩm đến và chia đều cho mọi người có mặt. Người Chăm tin rằng, những lễ vật này chính là phúc lộc mà Thượng đế ban tặng cho họ.

Trong tháng chay Ramadan, diễn ra vào tháng 9 lịch Hồi giáo, người Chăm luôn phải giữ mình trong sạch, phải chịu thử thách. Người Chăm phải nhịn mọi thứ vào ban ngày và chỉ được phép ăn uống vào ban đêm. Vào mồng 1 tháng 10 lịch Hồi giáo, nghi lễ được người Chăm tổ chức trọng thể để mừng cho mình và cộng đồng đã qua cuộc thử thách trong suốt tháng Ramadan (Hari Raya).

Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng Rabiul Awal (tháng 3 lịch Hồi giáo), cộng đồng theo Hồi giáo tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của Đức Mohamed. Đây cũng là một trong những ngày hội quan trọng của người Chăm ở Nam Bộ. Sau buổi lễ, người Chăm cùng nhau sức dầu thơm như để thụ hưởng phúc lộc của Thượng đế.

Nghi lễ Tolakbala được tổ chức vào tuần thứ tư ngày cuối tháng Safar (tháng 2 lịch Hồi giáo) hàng năm. Người Chăm tin rằng vào thời gian này, Thượng đế giáng những tai họa xuống trần gian, nên họ phải cầu xin Thượng đế ban cho họ sự bình an.

Trên đây là một số nghi lễ tôn giáo ở cộng đồng. Đối vời người Chăm, Hồi giáo còn có ảnh hưởng rất lớn trong các nghi lễ vòng đời và tập quán sinh hoạt thường nhật.

  • Nghi lễ đặt tên, cắt tóc cho trẻ sơ sinh: Khi đứa trẻ sinh ra được 7 hoặc 14 ngày, cha mẹ đứa bé làm lễ cắt tóc và đặt tên. Trong buổi lễ, người ta đọc Kinh Qur'an cầu Thượng đế ban cho đứa trẻ được bình an. Sau đó, cha mẹ đứa trẻ đặt tên cho con mình. Đối với bé trai thì có chữ nối là "bin", bé gái có chữ nối là "binti".
  • Nghi lễ thành niên: Nghi lễ này nhằm chứng nhận một người đến tuổi thành niên. Cả con trai và con gái đều quy định là 15 tuổi. Họ phải chịu tiểu phẫu ở bộ phận sinh dục.
  • Hôn nhân: Nhà trai nhờ người đến nhà gái để dạm hỏi, sau khi nhà gái đồng ý thì nhà trai chuẩn bị lễ hỏi. Lễ hỏi bao gồm các lễ vật như vải vóc, hoa tai, dây chuyền,… Lễ cưới thực hiện theo đúng nghi thức Rukun Nikah: Thứ nhất, phải có người đại diện phía nhà gái làm chủ hôn gọi là Wali. Thứ hai, phải có hai người làm chứng gọi là Saksi. Thứ ba, lễ Kabon tiến hành giữa ông Wali và chú rể. Ông Wali tuyên bố việc gả người con gái và chú rể chấp nhận việc cưới cô dâu. Thứ tư, phải có cô dâu. Thứ năm, phải có chú rể. Buổi lễ chính thức được diễn ra trước sự chứng kiến của nhiều người. Sau lễ cưới ba ngày, chú rể phải đưa cô dâu về thăm cha mẹ mình và phải mang sang nhà gái các vật dụng sinh hoạt như nồi, niêu, xoong, chảo, gạo, muối,… Cha mẹ chú rể sẽ đưa vợ chồng mới cưới đi thăm người thân. Chú rể có thể đưa vợ về ở nhà mình hoặc đến sống chung cùng với gia đình bên vợ.
  • Tang chế: Cũng giống một phần với người Kitô giáo, người Chăm quan niệm cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ. Vì thế, khi có người mất thì những người trong gia đình không ai được than khóc, để tang hoặc lập bàn thờ vì coi đó là sự đã an bài. Sau khi tẩm liệm, người chết được phủ trên mình một tấm khăn lớn có thêu những đoạn Kinh Coran và được đưa vào thánh đường để làm lễ cầu nguyện trước khi đem chôn. Khi đưa xuống huyệt, người chết sẽ được lật nghiêng hướng về phía tây, và cho đất lấp lại. Sau khi chôn cất xong, người ta cầu nguyện liên tục trong suất ba đêm, rồi ngưng cho đến ngày thứ 7, thứ 40 và thứ 100 sẽ cầu nguyện lại, sau đó là ngưng hẳn không còn bất kỳ hình thức lễ nào cho người quá cố nữa. Đối với ông bà tổ tiên, người Chăm thường xuyên tưởng nhớ và tổ chức thăm viếng vào những ngày cuối tháng Ramadan.
  • Người Chăm Islam có rất nhiều kiêng cữ trong cuộc sống. Trong nhà, họ không treo hình tượng của người hoặc loài vật kể cả di ảnh của người thân đã qua đời vì sợ sẽ làm sao lãng đức tin. Trong các bữa ăn thường ngày, người Chăm Islam không ăn thịt heo vì cho rằng đó là thức ăn dơ bẩn, không ăn thịt các động vật tự nhiên chết, không uống rượu bia,…
  • Trang phục: Trang phục của người Chăm ở Nam Bộ là sự tổng hợp của nhiều yếu tố. Phụ nữ chăm Islam khi tiếp xúc với khách hoặc khi ra đường đều đội khăn trên đầu để che kín tóc chứ không phải mang mạng như người Hồi giáo ở các nước Ả Rập.
  • Hoạt động nghệ thuật: Do bị hạn chế bởi tín ngưỡng Islam nên những hoạt động nghệ thuật như ca, múa, kịch,… chỉ được cộng đồng Chăm Islam ủng hộ trong những ngày Raya kết thúc tháng Ramadan, sinh nhật Mohamed, hoặc nhân dịp cưới hỏi cộng đồng.

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

  • Các bé gái Chăm ở Việt Nam

    Các bé gái Chăm ở Việt Nam

  •  
  • Phụ nữ Chăm ở Châu Đốc

    Phụ nữ Chăm ở Châu Đốc

  •  
  • Thánh đường Ehsan ở Đa Phước, An Phú

    Thánh đường Ehsan ở Đa Phước, An Phú

  •  
  • Một thánh đường ở Châu Đốc

    Một thánh đường ở Châu Đốc

  •  
  • Bên trong một thánh đường ở Châu Đốc

    Bên trong một thánh đường ở Châu Đốc

  •  
  • Thánh đường Đông Du

    Thánh đường Đông Du

  •  
  • Thánh đường Đông Du

    Thánh đường Đông Du

  •  
  • Thánh đường Al-Noor, Hà Nội

    Thánh đường Al-Noor, Hà Nội

  •  
  • Thánh đường Jamiul Muslimin, Thành phố Hồ Chí Minh

    Thánh đường Jamiul Muslimin, Thành phố Hồ Chí Minh

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Hourani 1995: 70-71
  2. ^ GCRC 2006: 24
  3. a b Taouti 1985: 197-198
  4. ^ Người Chăm Islam ở An Giang có sự phân chia giữa phái cũ và mới chứ không hoàn toàn theo khuôn mẫu Islam của Malaysia.
  5. ^ Teng 2005
  6. ^ GCRC 2006: 26
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Farah
  8. ^ Dong Nai 2006-01-16
  9. ^ “Khánh thành thánh đường Hồi giáo lớn nhất Việt Nam tại Đồng Nai”Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010.
  10. ^ Hình ảnh lễ khánh thành Masjid lớn nhất tại Việt Nam
  11. ^ https://www.aa.com.tr/en/asia-pacific/turkish-aid-ngo-opens-vietnams-biggest-mosque/821897
  12. ^ Theo tư liệu của Ban Đại diện tôn giáo Islam tại thành phố Hồ chí Minh đưa ra vào năm 1999.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hồi giáo tại Việt Nam.

Thông tin thêm

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state