Layout Options

  • Fixed Header
    Makes the header top fixed, always visible!
  • Fixed Sidebar
    Makes the sidebar left fixed, always visible!
  • Fixed Footer
    Makes the app footer bottom fixed, always visible!

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

Xem Nhân vật

Bạn đang xem : Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

student dp

Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

ID:17

Class:4

Section:A

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Không xác định
Religion : Group
blood : B+

Other Information

Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam là một tổ chức tôn giáo - xã hội dựa trên nền tảng là Phật giáo nhưng độc lập với Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động với phương châm hành đạo là "Tu học-hành thiện-ích nước-lợi dân" [1] Theo điều tra dân số năm 2009 thì Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có khoảng 11.093 tín đồ tuy nhiên theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam thì cả nước có gần 1,5 triệu tín đồ thuộc về giáo hội cùng với 4.800 chức sắc, 350.000 hội viên; gần 900 lương y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh; trên 3.000 người làm công việc chế biến thuốc Nam, hiện diện ở 24 tỉnh, thành phố phía Nam từ Khánh Hoà tới Cà Mau [1]. Phúc trình về tự do tôn giáo ở Việt Nam của Hoa Kỳ năm 2011 cũng đưa ra con số 1,3 triệu Phật tử thuộc về giáo hội Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam [2]

Nội dung chi tiết

Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bạn có tin nhắn mới Tin nhắn! (thay đổi gần đây).

Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam là một tổ chức tôn giáo - xã hội dựa trên nền tảng là Phật giáo nhưng độc lập với Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động với phương châm hành đạo là "Tu học-hành thiện-ích nước-lợi dân" [1]

Theo điều tra dân số năm 2009 thì Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có khoảng 11.093 tín đồ tuy nhiên theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam thì cả nước có gần 1,5 triệu tín đồ thuộc về giáo hội cùng với 4.800 chức sắc, 350.000 hội viên; gần 900 lương y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh; trên 3.000 người làm công việc chế biến thuốc Nam, hiện diện ở 24 tỉnh, thành phố phía Nam từ Khánh Hoà tới Cà Mau [1]. Phúc trình về tự do tôn giáo ở Việt Nam của Hoa Kỳ năm 2011 cũng đưa ra con số 1,3 triệu Phật tử thuộc về giáo hội Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam [2]

Cơ cấu giáo hội[sửa | sửa mã nguồn]

Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam quản lý theo hệ thống từ trung ương xuống đến các chi hội tại 21 tỉnh/thành phố từ Khánh Hòa đến Cà Mau. Có 4 cấp quản lý là Ban Trị sự trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. đứng đầu Ban Trị sự Trung ương là ông Chánh Hội trưởng lãnh đạo chung. Đứng đầu các Ban Trị sự Tỉnh hội là ông Hội trưởng. Đứng đầu các ban cấp quận, huyện hội gọi là Trưởng ban Y tế phước thiện. Trụ sở chính đặt tại Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng, phường 10,quận 6Thành phố Hồ Chí Minh.[3]

Cơ sở thờ tự của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam được gọi là hội quán, hiện tại giáo hội có 206 hội quán, mỗi hội quán đều có 1 phòng thuốc Nam phước thiện. Trong hội quán, những cư sĩ hội viên làm công tác lãnh đạo được gọi là chức sắc, chức việc. Có sáu loại chức sắc hội viên: hội viên sáng lập, hội viên danh dự, hội viên phước thiện, hội viên tán trợ, hội viên hành sự, hội viên huấn đạo. Tín đồ được xem là những người theo đạo và có quy y.[3]

Giáo lý cơ bản[sửa | sửa mã nguồn]

Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam lấy giáo lý Phật giáo làm gốc, nhưng diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với đời sống của đa số người dân. Giáo lý tập trung ở các quyển kinh, luật, luận căn bản như:[3]

  • Lễ bái lục phương: khuyên người cư sĩ tại gia, sống tích cực nhập thế giữa đời thường mà không đánh mất tâm tính thanh tịnh.
  • Phu thê ngôn luận: dùng hình thức đối đáp giữa hai vợ chồng nhằm khuyến khích người tu hành từ tư tưởng đến hành động đều phải quả quyết, không thoái chuyển.
  • Đạo đức: ghi lại lời thuyết giảng ý nghĩa và phương pháp thực hành đạo đức của Đức Tông Sư Minh Trí, nội dung chủ trương đạo đức là then chốt của văn minh và khoa học.
  • Giới luật: thuyết minh quan điểm của người tu Phật, nhất là người cư sĩ tại gia, nêu rõ tính nghiêm minh, cẩn trọng mà người cư sĩ tại gia nếu phát tâm thọ trì Bồ Tát giới cũng có thể đạt được những thành tựu như người xuất gia.
  • Phật học vấn đáp: là bộ Phật học phổ thông, thuyết minh về Giáo hội Tăng già, vấn đề Tam qui, Chơn lý tu học, xác định giá trị cũng như vị trí của người cư sĩ tại gia trong Phật đạo.
  • Phương pháp kiến tánh: thể hiện nội dung nâng cao trình độ tu học, trình bày từng giai đoạn của quá trình tu học để đạt được "Kiến Tánh". Người "Kiến Tánh" thì sẽ xa lìa được thiên kiến để thực hành trung đạo.

Về lễ tiết, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam hành lễ đơn giản nhưng thành kính. Hàng năm có hai ngày lễ lớn là lễ Phật đản (8 tháng 4 âm lịch) và lễ kỷ niệm ngày viên tịch của Đức Tông Sư Minh Trí (Ngày 23 tháng 8 âm lịch). Hàng tháng vào ngày mùng một và mười lăm âm lịch là những ngày lễ sóc vọng, làm lễ quy y cho tín đồ mới nhập đạo và thuyết giảng giáo lý. Ngoài ra giáo hội còn tổ chức những ngày lễ chung của đạo Phật như Tết Nguyên tiêu, Lễ Vu Lan... Theo quy định lễ Phật 24 lạy, lễ Quán Thế Âm 12 lạy, lễ Đức Tông Sư Minh Trí 6 lạy.[3]

Lịch sử giáo hội[sửa | sửa mã nguồn]

Người sáng lập và là giáo chủ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là Đức Tông Sư Minh Trí tên thật là Nguyễn Văn Bồng sinh năm Bính Tuất (1886) tại xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc, là con thứ bảy của ông Nguyễn Văn Bình và bà Nguyễn Thị An[4]. Từ thuở còn nhỏ, ông đã nghiên cứu các bài thuốc chữa bệnh cứu người và giác ngộ giáo lý nhà Phật. Với nền tảng sẵn có cộng với tư chất thông tuệ, ông đã mau chóng tinh thông y dược cổ truyền Việt Nam, chủ trương dùng y học dân tộc để giúp đời, hoằng dương Phật pháp.

Đầu năm 1934, ông thành lập Tịnh độ Cư sĩ Phật hội và được giấy phép của chính phủ bảo hộ Pháp ngày 20-2-1934, lúc đó tên chính thức là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội. Tông Sư Minh Trí chuyển tải giáo lý, kinh sách nhà Phật qua ngôn ngữ thơ ca, văn vần và dưới dạng đối đáp ngắn gọn dễ hiểu, đồng thời hướng mọi người vào hoạt động phước thiện để giúp đỡ người nghèo khó. Hoạt động Phật pháp được gắn với từ thiện nhân đạo, nên số tín đồ ngày một đông.[5]

Ngày 22 tháng 12 năm 1953, chính phủ Quốc gia Việt Nam xác định tính hợp pháp của Giáo hội bằng Nghị định số 83/MI/DAP với tên gọi đầy đủ như hiện nay là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam [3]

Ngày 27 tháng 11 năm 2007 Giáo hội được nhà nước Việt Nam chính thức công nhận tư cách pháp nhân[1]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. a b c Ban tôn giáo chính phủ
  2. ^ “Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam”Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2012.
  3. a b c d e “Khái quát về Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam”Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2012.
  4. ^ “Lược sử Đức Tông Minh Trí”Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2012.
  5. ^ “Lược sử truyền giáo của giáo hội Tịnh Độ”Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2012.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin thêm

Khái quát về Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (tinhdocusiphathoi.vn)

Khái quát về Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam

Vào những năm đầu thế kỷ 20, làn sóng chấn hưng đạo Phật ở Việt Nam nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các giới Phật tử. Từ Sài Gòn, Gia Định, phong trào chấn hưng lan rộng tới các vùng nông thôn, vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một số tôn giáo mới được hình thành dưới hình thức mới, vừa hoạt động tôn giáo, vừa giúp đỡ dân nghèo. Một số tôn giáo phát triển trên nền tảng giáo lý nhà Phật, nhưng được cải tiến ngắn gọn và dễ hiểu để phù hợp với sinh hoạt và trình độ của người dân Nam bộ lúc bấy giờ. Điển hình của một trong những tôn giáo mới xuất hiện trong giai đoạn này là Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam.

Người sáng lập ra TĐCSPHVN có tộc danh là Nguyễn Văn Bồng, sinh năm Bính Tuất 1886 tại xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Thuở nhỏ theo Nho học, nhờ nền tảng này cộng với tư chất thông tuệ, ngài tinh thông nghề Y dược cổ truyền Việt Nam. Ở tuổi trung niên, ngài đã sớm tỏ ngộ đạo mầu. Đến khi chính thức thành lập Giáo hội năm 1934, một năm sau (1935) ngài được toàn thể giáo đồ suy tôn là Đức Tông Sư Minh Trí, Giáo chủ TĐCSPHVN.

Trước phong trào chấn hưng Phật giáo nước nhà, ngài đã ứng dụng việc chuyển tải giáo lý nhà Phật qua ngôn ngữ của thơ ca, văn vần, và kinh sách dưới dạng đối đáp ngắn gọn dễ hiểu, để đi vào lòng người, để mọi người đến được với giáo lý Phật đà, đồng thời hướng mọi người vào hoạt động phước thiện để giúp đỡ người nghèo khó. Với hoạt động Phật pháp gắn với từ thiện nhơn đạo, giúp đỡ người nghèo bệnh tật bằng thuốc Nam, số người theo về TĐCSPHVN ngày một đông.

TĐCSPHVN trở thành một tôn giáo, và chính quyền thuộc Pháp lúc bấy giờ đã cấp giấy phép số 619 ngày 20-2-1934 để TĐCSPHVN hoạt động (lúc đó chỉ có sáu chữ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội, chưa có hai chữ Việt Nam). Thời Việt Nam Cộng Hoà xác định tính hợp pháp của Giáo hội bằng Nghị định số 83/MI/DAP ngày 22-12-1953. (Bấy giờ có đủ tám chữ Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam).

Từ khi ra đời năm 1934, TĐCSPHVN theo tôn chỉ Lục Phương Tông, chủ trương pháp môn niệm Phật và hành Lục Độ (xem thêm nội dung tờ phái trong bài Lược sử truyền giáo của Giáo hội TĐCSPHVN). Đến năm 1950 chính thức lấy tôn chỉ hành đạo là Phước Huệ Song Tu, lấy Pháp môn niệm Phật làm căn bản.

Tu Phước là đóng góp công sức, trí tuệ, tài vật để xây dựng, phát triển ngành Y dược dân tộc (Phòng Thuốc Nam phước thiện) để chữa bệnh miễn phí giúp người đời. Đây được xem là phương tiện để tạo cơ hội cho người nghèo khó có cơ duyên đến với Phật pháp.

Tu Huệ là học Kinh–Luật–Luận của Phật đạo để nâng cao trí tuệ, nâng cao sự hiểu biết để đạt tới giải thoát, an vui. Qua tu huệ để giác ngộ trong việc tu phước, phước và huệ nương nhau, thúc đẩy lẫn nhau phát triển trong một con người, từ đó phát triển rộng ra xã hội, nhằm xây dựng một xã hội đoàn kết, thân ái và tương trợ nhau lúc khó khăn cũng như lúc ốm đau.

  1. Về Giáo Lý tu học, TĐCSPHVN lấy giáo lý Phật đà làm gốc, song được diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu cho phù hợp với đời sống của đa số người dân lao động ở Nam bộ. Trong giáo lý của TĐCSPHVN có nhiều nội dung, song tập trung ở 6 quyển kinh, luật, luận căn bản :

LỄ BÁI LỤC PHƯƠNG : Đây là quyển kinh xuyên suốt toàn bộ giáo lý của người tu theo TĐCSPHVN. Nội dung kinh hướng về người cư sĩ tại gia, sống tích cực nhập thế giữa đời thường mà không đánh mất tâm tính bản nhiên thanh tịnh.

PHU THÊ NGÔN LUẬN : Dùng hình thức đối đáp giữa hai vợ chồng nhằm đạt tới sự diễn dịch “ý nghĩa ở ngoài lời nói.” Quyển Luận này nhằm khuyến khích người tu hành từ tư tưởng đến hành động đều phải quả quyết, không thoái chuyển. ĐẠO ĐỨC : Đây là quyển kinh ghi lại lời thuyết giảng ý nghĩa và phương pháp thực hành đạo đức của Đức Tông Sư Minh-Trí, nội dung chủ trương đạo đức là cái then chốt của văn minh cũng như của khoa học.

GIỚI LUẬT : Thuyết minh quan điểm của người tu Phật, nhất là người cư sĩ tại gia, nêu rõ tính chất nghiêm minh, cẩn trọng mà người cư sĩ tại gia nếu phát tâm thọ trì Bồ tát giới cũng có thể đạt được những thành tựu như người xuất gia.

PHẬT HỌC VẤN ĐÁP : Là bộ Phật học phổ thông bao quát nhiều trình độ, trong đó thuyết minh rõ về Giáo hội Tăng già, vấn đề Tam qui, chơn lý tu học, xác định giá trị cũng như vị trí vững chắc của người cư sĩ tại gia trong Phật đạo.

PHƯƠNG PHÁP KIẾN TÁNH : Quyển sách thể hiện nội dung nâng cao trình độ tu học, trình bày từng giai đoạn của quá trình tu học để đạt được Kiến Tánh. Người Kiến Tánh thì sẽ xa lìa được thiên kiến để thực hành trung đạo. Ví như một nhân tố tích cực, có thể làm cho người đạt tới những lợi ích hữu dụng hơn.

  1. Giáo luật : là những qui định của Giáo hội TĐCSPHVN (còn gọi là Điều lệ Nội qui) trong việc phân công, phân nhiệm cụ thể cho các hàng chức sắc, chức việc, hội viên, tín đồ. Tóm tắt như sau :

— Chức sắc, chức việc : đứng đầu Ban Trị sự Trung ương là ông Chánh Hội trưởng lãnh đạo chung. Đứng đầu các Ban Trị sự Tỉnh hội là ông Hội trưởng. Đứng đầu các ban cấp quận, huyện hội gọi là Trưởng ban Y tế phước thiện. Mỗi ban gồm có 12 vị với những chức danh và nhiệm vụ cụ thể, được tín đồ, hội viên bầu trực tiếp, nhiệm kỳ một năm.

— Cơ sở thờ tự của Giáo hội TĐCSPHVN được gọi là hội quán, mỗi hội quán đều có Phòng Thuốc Nam phước thiện. Hội quán là tài sản chung của Giáo hội TĐCSPHVN, không thuộc về quyền hạn của bất cứ cá nhân nào.

— Trong hội quán, những cư sĩ hội viên làm công tác lãnh đạo các cấp gọi là chức sắc, chức việc. Có sáu sắc hội viên : hội viên sáng lập, hội viên phước thiện, hội viên tán trợ, hội viên hành sự, hội viên huấn đạo. Tín đồ là những người theo đạo và có qui y. Các chức sắc, chức việc, hội viên tín đồ phải tuân theo Điểu lệ Nội qui của Giáo hội.

  1. Giáo Lễ : TĐCSPHVN hành lễ tuy đơn giản nhưng thành kính. Hằng năm có hai ngày lễ lớn :

— Ngày 8-4 âm lịch : Lễ Phật đản và Đại hội thường niên ngành Y tế phước thiện, đồng thời bầu Ban lãnh đạo Trung ương.

— Ngày 23-8 âm lịch : Lễ kỷ niệm ngày viên tịch của Đức Tông Sư Minh Trí—Giáo chủ TĐCSPHVN, và Đại hội thường niên ngành Đạo đức.

Hằng tháng vào ngày mùng một và 15 âm lịch là những ngày lễ sóc vọng, làm lễ qui y cho tín đồ mới nhập đạo và thuyết giảng giáo lý. Ngoài ra còn tổ chức những ngày lễ chung của đạo Phật, như rằm tháng Giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng 10 v.v…

Hành lễ công phu tứ thời : Theo qui định lễ Phật 24 lạy (giản chính theo Lễ Bái Lục Phương), lễ Đức Quán Thế Âm 12 lạy, lễ Đức Tông Sư Minh Trí 6 lạy.

  1. Cơ cấu tổ chức Giáo hội : TĐCSPHVN chính thức thành lập năm 1934, khi đó có 7 hội quán. Năm 1956 có 110 hội quán, năm 1971 có 181 hội quán, năm 1975 có 185 hội quán. Năm 2006 có 206 hội quán. TĐCSPHVN quản lý theo hệ thống từ Trung ương xuống đến các Tỉnh/Thành hội. Tỉnh/Thành hội trực tiếp quản lý Quận/Huyện, Phường/Xã và Ấp hội. Có 4 cấp quản lý, đến nay vẫn giữ nguyên mô hình này.

Hiện tại TĐCSPHVN có 206 hội quán, mỗi hội quán đều có Phòng Thuốc Nam phước thiện, hiện diện ở 23 tỉnh, thành phố từ Khánh Hoà (Nha Trang) tới Cà Mau ; trụ sở chính đặt tại Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng phường 10 quận 6 TP Hồ Chí Minh.

  1. Đạo kỳ : có biểu tượng chữ Nhứt viết theo cổ tự. Nhứt có nghĩa là chung nhứt, tất cả đều qui về Một. Một là đối với huynh đệ coi như anh em một nhà, nên Nhứt Tâm, Nhứt Trí đồng lao cộng tác chung lo việc Giáo hội, không phân chia nhơn ngã, một lòng một dạ, tương thân tương ái giúp đỡ khuyến khích lẫn nhau lo tu hành.

Tiêu chí của TĐCSPHVN là Tu học, hành thiện, ích nước lợi dân, thực sự lợi đạo, ích đời, đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội. Vào tháng 9 năm 2006, TĐCSPHVN được Nhà nước cấp phép đăng ký hoạt động tôn giáo. Qua năm 2007, Nhà nước trao Quyết định Công nhận với QĐ số 207/QĐ-TGCP ngày 27-11-2007.

BAN TRỊ SỰ TRUNG ƯƠNG

Thông tin thêm

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state